Phân biệt giữa bong gân cổ tay và gãy xương cổ tay

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Bong gân cổ tay là tình trạng các dây chằng ở cổ tay giãn quá mức và rách (một phần hoặc toàn bộ). Trái lại, gãy xương cổ tay nghĩa là một trong các xương cổ tay bị gãy. Đôi khi rất khó phân biệt giữa bong gân cổ tay và gãy xương cổ tay, vì cả hai chấn thương này đều có các triệu chứng như nhau và đều do các chấn thương tương tự gây ra – chống tay khi ngã hoặc cổ tay bị va đập trực tiếp.[1] Trên thực tế, trường hợp gãy xương cổ tay cũng rất thường bao gồm cả bong gân cổ tay. Việc xác định chính xác hai trường hợp chấn thương này đòi hỏi sự chẩn đoán y khoa (bằng X-quang), tuy nhiên đôi khi bạn cũng có thể phân biệt giữa bong gân và gãy xương cổ tay tại nhà trước khi đến bệnh viện hoặc cơ sở y tế.

Các bước[sửa]

Chẩn đoán bong gân cổ tay[sửa]

  1. Thử cử động cổ tay và đánh giá. Bong gân cổ tay có thể xảy ra với nhiều mức độ, tùy thuộc vào độ giãn hoặc rách một hoặc nhiều dây chằng. Trong trường hợp bong gân cổ tay nhẹ (độ 1), các dây chằng bị giãn nhưng không rách đáng kể; trường hợp trung bình (độ 2) chỉ tình trạng rách dây chằng khá nhiều (lên đến 50% số sợi) và có thể mất một số chức năng; trường hợp bong gân nặng (độ 3) chỉ tình trạng rách dây chằng nặng hơn hoặc đứt hoàn toàn.[2] Như vậy, bạn vẫn có thế cử động cổ tay tương đối bình thường (mặc dù đau) nếu bị bong gân độ 1 và độ 2. Trường hợp bong gân độ 3 thường dẫn đến tình trạng không ổn định trong vận động (tầm vận động quá mức), vì các dây chằng gắn với xương cổ tay bị đứt hoàn toàn.
    • Nói chung, chỉ một số trường hợp bong gân cổ tay độ 2 và mọi trường hợp độ 3 mới đòi hỏi chăm sóc y tế. Tất cả các trường hợp bong gân cổ tay độ 1 và hầu hết độ 2 có thể điều trị tại nhà.
    • Trường hợp bong gân cổ tay độ 3 có thể bao gồm tình trạng gãy lìa xương, khi dây chằng đứt rời khỏi xương và kéo theo một mảnh xương nhỏ.[2]
    • Dây chằng cổ tay thường bị giãn nhất là dây chằng thuyền-nguyệt (scapho-lunate ligament) nối xương thuyền và xương nguyệt.[1]
  2. Xác định kiểu đau. Bong gân cổ tay cũng rất khác nhau về mức độ và kiểu đau.[2] Bong gân cổ tay độ 1 gây đau nhẹ, cơn đau thường được mô tả là nhức và có thể đau nhói khi cử động. Bong gân độ 2 có mức đau trung bình đến dữ dội, tùy vào tình trạng rách dây chằng; mức độ đau cao hơn độ 1 và đôi khi đau nhói vì viêm nhiều hơn. Một điều có vẻ nghịch lý là, bong gân độ 3 ban đầu thường ít gây đau hơn độ 2 vì dây chằng đã bị đứt hoàn toàn và không kích thích các dây thần kinh xung quanh nhiều. Tuy nhiên, bong gân độ 3 sẽ bắt đầu đau nhói khi tình trạng viêm gia tăng.
    • Trường hợp bong gân độ 3 kèm theo gãy lìa xương gây đau dữ dội ngay lập tức, kiểu đau nhói và thốn.
    • Tình trạng bong gân gây đau nhất khi cử động; triệu chứng thường thuyên giảm nếu được giữ bất động.
    • Nói chung, bạn cần đi khám ngay nếu cổ tay đau nhiều và khó cử động.
  3. Chườm đá và quan sát phản ứng. Trường hợp bong gân ở mọi cấp độ đều đáp ứng tốt với liệu pháp chườm đá hoặc chườm lạnh nhờ tác dụng giảm viêm và làm tê các dây thần kinh xung quanh vốn gây đau.[2] Liệu pháp chườm đá đặc biệt quan trọng trong các trường hợp bong gân cổ tay cấp độ 2 và 3 do tình trạng viêm tăng lên xung quanh vị trí chấn thương. Liệu pháp chườm đá lên cổ tay bị bong gân sau khi chấn thương khoảng 1 đến 2 tiếng một lần, mỗi lần khoảng 10-15 phút rất có hiệu quả sau khoảng 1 ngày và giúp giảm đau đáng kể, nhờ đó việc cử động cũng dễ dàng hơn. Trái lại, chườm đá khi bị gãy xương cổ tay tuy cũng giúp giảm đau và giảm viêm nhưng các triệu chứng thường quay trở lại sau khi đã hết tác dụng. Như vậy, nói chung là liệu pháp chườm lạnh có hiệu quả trong trường hợp bong gân cổ tay hơn hầu hết các trường hợp gãy xương.
    • Trường hợp bong gân càng nghiêm trọng thì vết thương càng sưng nhiều khiến chỗ đau phồng to.
    • Các trường hợp nứt xương thường đáp ứng với liệu pháp lạnh (lâu dài) tốt hơn so với các trường hợp gãy xương nặng đòi hỏi được chăm sóc y tế.
  4. Kiểm tra hiện tượng bầm tím vào ngày hôm sau. Tình trạng viêm thường gây sưng, nhưng sưng không giống như bầm tím.[3] Hiện tượng bầm tím là do tình trạng máu từ các động mạch hoặc tĩnh mạch nhỏ tràn vào các mô. Bong gân độ 1 thường không gây bầm tím, trừ khi cú va đập mạnh làm vỡ các mạch máu dưới da. Bong gân độ 2 thường kèm sưng, nhưng có thể không bầm tím nhiều – điều này phụ thuộc vào việc chấn thương xảy ra như thế nào. Bong gân độ 3 gây sưng nhiều và thường bầm tím đáng kể vì chấn thương làm đứt dây chằng thường nghiêm trọng đủ để làm vỡ hoặc tổn thương cách mạch máu xung quanh.
    • Tình trạng sưng do viêm không làm đổi màu da nhiều, ngoại trừ màu đỏ do nhiệt sinh ra.
    • Hiện tượng bầm tím khiến da chuyển màu xanh đậm thường là do máu rỉ vào các mô ngay bên dưới bề mặt da. Khi máu tan và rút khỏi các mô này, vết bầm tím cũng đổi màu (xanh nhạt và cuối cùng là hơi vàng).
  5. Theo dõi diễn tiến sau vài ngày. Về cơ bản, mọi trường hợp bong gân cổ tay độ 1 và một số trường hợp độ 2 sẽ cải thiện đáng kể sau vài ngày, nhất là khi vết thương được giữ bất động và chườm lạnh.[2] Như vậy, nếu cổ tay của bạn có vẻ khá hơn, không sưng rõ rệt và có thể cử động mà không thấy đau thì không cần can thiệp y khoa. Trường hợp bong gân nặng hơn (độ 2) nhưng có cảm giác đỡ hơn nhiều sau vài ngày (cho dù vẫn còn sưng và đau), bạn cần chờ thêm một thời gian nữa để hồi phục. Tuy nhiên, trường hợp vết thương không cải thiện nhiều hoặc xấu đi sau vài ngày cần phải được kiểm tra y khoa càng sớm càng tốt.
    • Bong gân độ 1 và một số trường hợp độ 2 lành khá nhanh (1 đến 2 tuần), trong khi bong gân độ 3 (đặc biệt là khi xương gãy lìa) có thời gian hồi phục lâu nhất (đôi khi đến vài tháng).
    • Trường hợp nứt xương cũng có thể lành khá nhanh (vài tuần), trái lại, các trường hợp gãy xương nghiêm trọng có thể phải mất vài tháng hoặc hơn, tùy vào việc có phẫu thuật hay không.

Chẩn đoán gãy xương cổ tay[sửa]

  1. Quan sát hiện tượng lệch hoặc vẹo. Các kiểu tai nạn hoặc chấn thương gây bong gân cổ tay cũng có thể gây gãy xương cổ tay. Nói chung, xương càng to và chắc thì càng ít khả năng bị gãy do chấn thương – thay vào đó là tình trạng giãn và rách dây chằng. Tuy nhiên, nếu xương bị gãy thì thường có hiện tượng lệch hoặc vẹo.[4] Tám chiếc xương cổ tay khá nhỏ, do đó hiện tượng lệch và vẹo cổ tay có thể khó (hoặc không thể) nhận ra, nhất là trong trường hợp nứt xương, tuy nhiên trường hợp gãy xương nặng hơn sẽ dễ biết hơn.
    • Xương dài vùng cổ tay thường bị gãy nhất là xương quay, tức là xương cẳng tay gắn với các xương nhỏ ở cổ tay.[5]
    • Xương cổ tay thường bị gãy nhất là xương thuyền; trường hợp này thường ít có khả năng gây biến dạng cổ tay rõ rệt.[5]
    • Trường hợp xương đâm qua da và lộ ra ngoài được gọi là gãy xương hở.
  2. Xác định kiểu đau. Mức độ và kiểu đau do gãy xương cổ tay cũng tùy thuộc vào độ nặng nhẹ của chấn thương, nhưng thông thường được mô tả là đau nhói khi cử động và đau nhức khi bất động. Cơn đau do gãy xương cổ tay thường gia tăng khi nắm hoặc siết bàn tay; tình trạng này thường không xảy ra khi bong gân.[4] So với bong gân, gãy xương cổ tay thường gây nhiều triệu chứng ở bàn tay hơn, chẳng hạn như cứng, tê hoặc không thể cử động ngón tay, do có nhiều khả năng bị chấn thương/tổn thương dây thần kinh hơn.[6] Ngoài ra còn có tiếng kêu răng rắc khi cử động cổ tay gãy; điều này không xảy ra ở trường hợp bong gân cổ tay.
    • Cơn đau khi gãy xương cổ tay thường (nhưng không luôn luôn) xuất hiện sau tiếng “rắc”. Trái lại, chỉ có bong gân độ 3 mới tạo ra âm thanh hoặc cảm giác tương tự, và đôi khi có tiếng “nổ” khi dây chằng bị đứt.
    • Nói chung, cơn đau do gãy xương cổ tay gia tăng vào ban đêm, trong khi đau do bong gân sẽ ổn định và không nhói lên trong đêm nếu cổ tay được giữ cố định.
  3. Theo dõi xem các triệu chứng có nặng hơn vào ngày hôm sau không. Như đã nói ở trên, trường hợp bong gân từ nhẹ đến vừa có thể đỡ hẳn sau một hai ngày nếu được nghỉ ngơi và chườm lạnh, nhưng ở trường hợp gãy xương thì không như vậy.[7] Ngoài trường hợp nứt xương có thể là một ngoại lệ, hầu hết các xương bị gãy đều cần nhiều thời gian hơn đáng kể để bình phục so với bong gân. Như vậy, vài ngày chườm đá và nghỉ ngơi không có tác dụng nhiều để giúp thuyên giảm triệu chứng trong hầu hết các trường hợp gãy xương. Trong một số trường hợp, bạn có thể cảm thấy tình trạng xấu hơn khi cơ thể đã qua cú “sốc” ban đầu khi bị chấn thương.
    • Nếu xương gãy ở cổ tay đâm qua da, rủi ro nhiễm trùng và mất máu nhiều rất cao. Bạn cần tìm sự chăm sóc y tế càng sớm càng tốt.
    • Một chiếc xương gãy ở cổ tay có thể hoàn toàn cắt đứt sự lưu thông máu đến bàn tay. Hiện tượng sưng do máu chảy được gọi là “hội chứng chèn ép khoang” và là trường hợp cần cấp cứu. Khi điều này xảy ra, bàn tay sẽ lạnh (do thiếu máu) và nhợt nhạt (trắng xanh).
    • Một chiếc xương gãy cũng có thể kẹp hoặc làm đứt dây thần kinh gần đó, dẫn đến tê hoàn toàn ở vùng bàn tay có phân bố các dây thần kinh.
  4. Chụp X-quang do bác sĩ chỉ định. Các thông tin trên có thể hướng dẫn bạn đoán được chấn thương cổ tay của bạn là bong gân hay gãy xương, tuy nhiên chỉ có các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như chụp X-quang, chụp cộng hưởng từ (MRI) hoặc chụp cắt lớp vi tính (CT scan) mới có thể xác định chính xác trong hầu hết các trường hợp – trừ khi xương gãy đâm qua da. Chụp X-quang là phương pháp phổ biến và tiết kiệm nhất để quan sát các xương nhỏ ở cổ tay. Bác sĩ có thể giới thiệu bạn đi chụp X-quang cổ tay để bác sĩ chuyên khoa X-quang đọc kết quả trước khi tư vấn cho bạn. X-quang chỉ cho hình ảnh của xương mà không thấy được các mô mềm như dây chằng hoặc gân. Các xương bị gãy rất khó đọc bằng X-quang do kích thước nhỏ và không gian hạn chế, và có thể phải mất vài ngày mới thấy rõ trên hình ảnh X-quang. Để xem thêm các tổn thương dây chằng, bác sĩ sẽ giới thiệu bạn chụp MRI hoặc CT scan.
    • Chụp MRI, một phương pháp dùng sóng từ để cung cấp các hình ảnh chi tiết của cấu trúc xương trong cơ thể, có thể cần thiết trong việc phát hiện xương gãy ở cổ tay, đặc biệt là các xương thuyền bị gãy.
    • Trường hợp nứt xương cổ tay rất khó nhìn thấy trên hình ảnh X-quang bình thường cho đến khi hết viêm. Như vậy, bạn có thể phải chờ khoảng một tuần để được xác định xương gãy, mặc dù cho đến lúc đó thì vết thương có thể đang tự lành.
    • Chứng loãng xương (xương giòn do thiếu khoáng chất) là một yếu tố rủi ro chủ yếu gây gãy xương cổ tay, tuy nhiên tình trạng này không thực sự làm tăng nguy cơ bong gân cổ tay.

Lời khuyên[sửa]

  • Bong gân và gãy xương cổ tay thường do ngã, vì vậy bạn cần cẩn thận khi đi trên bề mặt ướt hoặc trơn trượt.
  • Trượt ván và trượt tuyết là các hoạt động có độ rủi ro bong gân và gãy xương cổ tay cao, vì vậy bạn nên luôn luôn đeo dụng cụ bảo vệ cổ tay.
  • Một số xương cổ tay không nhận được nguồn cung cấp máu nhiều dưới điều kiện bình thường, do đó quá trình hồi phục có thể phải mất nhiều tháng mới lành nếu bị gãy.

Cảnh báo[sửa]

  • Nếu không được điều trị, cổ tay bị gãy có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh viêm xương khớp.

Nguồn và Trích dẫn[sửa]