Xung đột Ả Rập-Israel

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Cuộc Xung đột Ả Rập-Do Thái (, ) là những hành vi thù địch và căng thẳng chính trị đã kéo dài khoảng một thế kỷ. Nó liên quan tới sự thành lập Nhà nước Israel hiện đại, cũng như sự thành lập và độc lập của nhiều quốc gia Ả Rập trong cùng thời kỳ, và mối quan hệ giữa các nước Ả Rập và Israel (xem bài liên quan Xung đột Israel-Palestine).

Phạm vi cuộc xung đột[sửa]

Một số người sử dụng thuật ngữ "Xung đột Trung Đông" để chỉ vấn đề này; tuy nhiên, đây là vùng đã xảy ra nhiều cuộc xung đột không có sự tham gia của Israel (xem Danh sách những cuộc xung đột tại Trung Đông). Từ năm 1979, cuộc xung đột có thêm sự hiện diện của nước Cộng hòa Hồi giáo Iran (một quốc gia không Ả Rập, không nổi bật trên bản đồ).

Dù chỉ xảy ra trên một diện tích địa lý và với số lượng thương vong khá nhỏ, cuộc xung đột đã trở thành tâm điểm quan tâm của truyền thông quốc tế cũng như sự chú ý của giới ngoại giao trong nhiều thập kỷ, có lẽ bởi trữ lượng dầu mỏ to lớn trong vùng, dù thực tế rằng Israel thực tế không sở hữu bất kỳ nguồn tài nguyên dầu mỏ nào,[1] và cả Liban cũng như Chính quyền Palestine cũng không hề có[2]. Hơn nữa, nhiều quốc gia, cá nhân và các tổ chức phi chính phủ ở khắp nơi trên thế giới đều cảm thấy mình có liên quan tới cuộc xung đột này vì những lý do như quan hệ văn hóa tôn giáo với Đạo Hồi, văn hóa Ả Rập, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo hay Văn hóa Do Thái, hay vì ý thức hệ, nhân quyền, chiến lược hay các lý do tài chính khác.

Vì Israel là một chế độ dân chủ với hệ thống báo chí tự do, truyền thông được phép tiếp cận cuộc xung đột và nhờ thế cuộc xung đột cũng được tường thuật nhiều hơn. Một số người coi cuộc xung đột Ả Rập-Israel là một phần của (hay là dấu hiệu cảnh báo trước của) một sự xung đột giữa các nền văn minh lớn hơn giữa Thế giới phương Tây Ả Rập hay Thế giới Hồi giáo.[3][4] Những người khác cho rằng sự liên quan tôn giáo là một vấn đề khá mới trong cuộc xung đột này.[5] Cuộc xung đột này đã gây ra tình trạng thù địch và nhiều cuộc tấn công lẫn nhau từ phía những người ủng hộ (hay được cho là ủng hộ) từ phía các bên đối nghịch tại các quốc gia trên toàn thế giới.

Lịch sử cuộc xung đột[sửa]

Xem chi tiết: Lịch sử cuộc Xung đột Ả Rập-Israel

Khởi đầu-1948[sửa]

Cuộc di cư Do Thái vào Vùng đất Israel/Palestine dưới thời cầm quyền của Đế chế Ottoman và sau này dưới thời ủy trị Anh đã làm gia tăng căng thẳng giữa dân tộc Do Thái và các sắc dân Ả Rập trong vùng.[6]

Tới cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc xung đột đã trở thành một vấn đề quốc tế lớn. Liên hiệp quốc, Hoa Kỳ Liên bang Xô viết quyết tâm đưa ra một giải pháp hai quốc gia. Cuộc phân chia do Liên hiệp quốc ủy nhiệm được tiến hành năm 1948, nhưng bị người Palestine và nhiều quốc gia Ả Rập phản đối.[7]

Israel tuyên bố độc lập ngày 14 tháng 5 năm 1948. Hầu như ngay lập tức, Ai Cập, Liban, Syria, Transjordan Iraq tuyên bố chiến tranh với nhà nước non trẻ. Tới cuối cuộc Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948, Israel đã mở rộng thêm khá nhiều biên giới của mình, và ký kết những thỏa thuận ngừng bắn với các nước Ả Rập láng giềng.[8]

1949-11 tháng 6 năm 1967[sửa]

Năm 1954, Ai Cập bắt đầu phong toả Eo Tiran, ngăn cản mọi con tàu tới Eilat.[9] Ngày 26 tháng 7 năm 1956, Ai Cập quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez, và đóng cửa kênh đào này với tàu bè Israel.[10]

Israel trả đũa ngày 29 tháng 10 năm 1956, bằng cách xâm chiếm Bán đảo Sinai với sự hỗ trợ của Anh và Pháp. Trong cuộc Khủng hoảng kênh đào Suez, Israel đã chiếm Dải Gaza và Bán đảo Sinai. Hoa Kỳ Liên hiệp quốc nhanh chóng gây sức ép buộc nước này ngừng chiến,[10][11] mở lại đường biển trong khu vực, hoàn thành việc rút hoàn toàn quân đội Israel khỏi lãnh thổ Ai Cập, và giải giáp hoàn toàn Sinai. Lực lượng Khẩn cấp Liên hiệp quốc (UNEF) được triển khai để giám sát việc giải giáp.[12]

Ngày 19 tháng 5 năm 1967, Ai Cập trục xuất các quan sát viên UNEF,[13] và triển khai 100.000 binh sĩ tại Bán đảo Sinai.[14] Sau đó nước này đóng cửa Eo Tiran đối với tàu bè Israel,[15][16] khiến tình hình khu vực quay trở lại như giai đoạn trước năm 1956. Ngày 30 tháng 5 năm 1967, Jordan tham gia một hiệp ước phòng vệ chung với Ai Cập và Syria. Tổng thống Nasser tuyên bố: "Mục tiêu căn bản của chúng ta là phá huỷ Israel. Người Ả Rập muốn chiến đấu."[17]

Để trả đũa, ngày 5 tháng 6 Israel tung hầu hết tất cả máy bay của mình vào một cuộc tấn công không quân phủ đầu vào Ai Cập. Không quân Israel (AIF) đã tiêu diệt hầu hết Không quân Ai Cập - vẫn đang bất ngờ trước cuộc tấn công, sau đó quay về phía đông tiêu diệt nốt các lực lượng không quân Jordan, Syria và Iraq.[18] Cuộc tấn công này là yếu tố chủ chốt dẫn tới chiến thắng của Israel trong cuộc Chiến tranh Sáu Ngày.[14][16]

12 tháng 6 năm 1967-1973[sửa]

Mùa hè năm 1967, các lãnh đạo Ả Rập gặp mặt tại Khartoum về cuộc chiến tranh nhằm tìm ra một lập trường chung với Israel. Họ đạt đến đồng thuận như sau:

  • Không công nhận Nhà nước Israel.
  • Không có hòa bình với Israel.
  • Không đàm phán với Israel.[19]

Năm 1969, Ai Cập đưa ra sáng kiến Chiến tranh Tiêu hao, với mục tiêu làm kiệt quệ nhà nước Israel buộc họ đầu hàng tại Bán đảo Sinai.[20] Cuộc chiến tranh chấm dứt với cái chết của Nasser năm 1970.

Ngày 6 tháng 10 năm 1973, Syria và Ai Cập tấn công Israel vào ngày lễ Yom Kippur, lấn lướt lực lượng quân sự bất ngờ của Israel.[21][22] Cuộc Chiến tranh Yom Kippur ảnh hưởng tới sự đối đầu gián tiếp giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết. Khi Israel đã chiếm lại ưu thế trên chiến trường, Liên bang Xô viết đã đe dọa can thiệp quân sự. Hoa Kỳ, thận trọng với cuộc chiến tranh hạt nhân, đã giàn xếp một cuộc ngưng bắn ngày 25 tháng 10.[21][22]

1974-2000[sửa]

Ai Cập

Sau Hiệp ước Trại David cuối thập kỷ 1970, Israel và Ai Cập đã ký kết một hiệp ước hòa bình vào tháng 3 năm 1979. Theo những điều khoản của nó, Bán đảo Sinai được trao trả lại cho Ai Cập, và Dải Gaza tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của Israel, sẽ được gộp vào trong nhà nước Palestine tương lai.[23]

Jordan

Tháng 10 năm 1994, Israel và Jordan đã ký kết một hiệp ước hòa bình, quy định sự hợp tác song phương, một sự kết thúc những sự thù địch, và một giải pháp với những vấn đề còn chưa được giải quyết.[8]

Iraq

Tháng 6 năm 1981, Israel đã thành công trong việc tấn công phá hủy cơ sở hạt nhân mới được xây dựng của Iraq trong Chiến dịch Opera.

Trong Chiến tranh Vùng Vịnh, Iraq đã bắn 39 tên lửa vào Israel, với hy vọng thống nhất thế giới Ả Rập chống lại liên quân đang tìm cách giải phóng Kuwait. Trước yêu cầu của Hoa Kỳ, Israel đã không trả đũa các cuộc tấn công này nhằm ngăn chặn sự bùng phát thêm của cuộc chiến.[8]

Liban

Năm 1970, sau một cuộc nội chiến kéo dài, vua Hussein đã trục xuất PLO khỏi Jordan. PLO chuyển sang đóng tại Liban và từ đó tung ra các cuộc tấn công nhằm vào Israel. Năm 1981, Syria, đồng minh của PLO, bố trí tên lửa tại Liban. Tháng 6 năm 1982, Israel xâm chiếm Liban. Trong vòng 2 tháng, PLO đã đồng ý rút lui.

Tháng 3 năm 1983, Israel và Liban ký kết một thỏa thuận ngừng bắn. Tuy nhiên, Syria đã gây sức ép buộc Tổng thống Amin Gemayel phải hủy bỏ hiệp ước này vào tháng 3 năm 1984. Tới năm 1985, các lực lượng Israel hầu như đã rút toàn bộ khỏi Liban,[8] Israel đã hoàn thành việc rút quân vào tháng 5 năm 2000, để lại một khoảng trống quyền lực và Syria cùng Hezbollah đã nhanh chóng nắm lấy. [24]

Palestine

Năm 1987, Phong trào Intifada lần thứ nhất bắt đầu. PLO bị trục xuất khỏi các cuộc đàm phán để giải quyết vấn đề cho tới khi họ công nhận Israel và từ bỏ chủ nghĩa khủng bố trong năm sau đó. Năm 1993, Israel và PLO đã ký kết Hiệp ước hòa bình Oslo, và bản "Tuyên bố về các Nguyên tắc" của họ, cùng với Tiến trình hòa bình, đã được coi là kim chỉ nam cho những quan hệ Israel-Palestine từ đó tới nay. [8]

2000-hiện nay[sửa]

Để chống lại al-Aqsa Intifada, Israel đã tung ra cái gọi là cuộc tấn công vào các cơ sở khủng bố tại các trung tâm đô thị chính ở Bờ Tây năm 2002. Bạo lực một lần nữa lại lan tràn trong vùng. Với hy vọng tái khởi động tiến trình hòa bình, thủ tướng Israel Ariel Sharon đã bắt đầu chương trình đơn phương rút quân khỏi Dải Gaza năm 2003. Chính sách này được thực thi toàn bộ vào tháng 8 năm 2005.[25]

Tháng 7 năm 2006, các chiến binh Hezbollah đã tấn công một đoàn xe quân sự Israel, bắt cóc hai binh sĩ và giết hại bảy người khác, dẫn tới cuộc Xung đột Israel-Liban năm 2006.[23] Một cuộc ngừng bắn được Liên hiệp quốc bảo trợ bắt đầu có hiệu lực ngày 14 tháng 8 năm 2006, chính thức chấm dứt cuộc xung đột.[26]

Chú thích[sửa]

  1. CIA World Factbook. Israel
  2. “The Greening Of The Middle East: Oil for Feud”.
  3. Abdel Mahdi Abdallah (Dec. 2003), More specifically, author Edward Said affirms his belief that if a solution can be found in Israel, the global community may be able to follow this guideline, generating peace and understanding between the cultures of the East and West. "Causes of Anti-Americanism in the Arab World: A Socio-Political Perspective," Middle East Review of International Affairs (MERIA) 7.4, accessed January 9, 2007.
  4. Section 2: "Clash of Civilizations," in Arab-Israeli Conflict: Role of religion, Israel Science and Technology ("the national database and directory of science and technology related sites in Israel"), (c) 1999-2007, accessed January 9, 2007.
  5. Ibrahim Al-Khouli and Wafa Sultan (February 21, 2006), "Arab-American Psychiatrist Wafa Sultan: There is No Clash of Civilizations but a Clash between the Mentality of the Middle Ages and That of the 21st Century," Clip No. 1050, printable transcript of television interview with Sultan conducted by Al-Khouli, broadcast on Al Jazeera, online posting, Middle East Media Research Institute (MEMRI) February 22, 2006, accessed January 9, 2007.
  6. Sela, Avraham. "Arab-Israeli Conflict." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002. pp. 58-121.
  7. “The incredible shrinking Palestine”.
  8. 8,0 8,1 8,2 8,3 8,4 "Israel." Encarta Encycolpedia. http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10____75/Israel_(country).html#s75
  9. “Background Note: Israel”. US State Department. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  10. 10,0 10,1 “1956: Egypt Seizes Suez Canal”. British Broadcasting Service. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  11. “UN GA Resolution 997”. Mideast Web. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  12. http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10/Israel.html
  13. “UN: Middle East - UNEF I, Background”. United Nations. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  14. 14,0 14,1 Lorch, Netanel. “The Arab-Israeli Wars”. Israeli Ministry of Foreign Affairs. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  15. 'Egypt Closes Gulf Of Aqaba To Israel Ships: Defiant move by Nasser raises Middle East tension', The Times, Tuesday, May 23, 1967; pg. 1; Issue 56948; col A.
  16. 16,0 16,1 “The Disaster of 1967”. The Jordanian Government. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  17. “1967: Egypt and Jordan Unite Against Israel”. British Broadcasting Service. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  18. “Course of the Six Day War”. Palestine Facts. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  19. “President Mubarak Interview with Israeli TV”. Egyptian State Information Service. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  20. “Israel: The War of Attrition”. Encyclopedia Britannica. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  21. 21,0 21,1 “Israel: The Yom Kippur War”. Encyclopedia Britannica. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  22. 22,0 22,1 “Arab-Israeli War of 1973”. Encarta Encyclopedia. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  23. 23,0 23,1 "Israel." Encarta Encycolpedia. http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_11/Israel.html
  24. "After the cease-fire." Brandeis University. http://my.brandeis.edu/news/item?news_item_id=105605&show_release_date=1
  25. "Special Update: Disengagement - August 2005". Israeli Ministry of Foreign Affairs. http://www.mfa.gov.il/MFA/History/Modern+History/Historic+Events/Disengagement+-+August+2005.htm
  26. CNN (2006). "Lebanon truce holds despite clashes". Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2006.

Đọc thêm[sửa]

Lịch sử tổng quan[sửa]

  • Bregman, Ahron (2002). Israel's Wars: A History Since 1947. London: Routledge. ISBN 0-415-28716-2
  • Bregman, Ahron Elusive Peace: How the Holy Land Defeated America.
  • Bard, Mitchell. The Complete Idiot's Guide to Middle East Conflict. 2nd ed. (Alpha, 2002), ISBN 0-02-864410-7
  • Bickerton, Ian J. and Carla L. Klausner. A Concise History of the Arab–Israeli Conflict. 4th ed. (Prentice Hall, 2001), ISBN 0-13-090303-5
  • Cohn-Sherbok, Dan. The Palestine-Israeli Conflict: A Beginner's Guide (Oneworld Publications, 2003), ISBN 1-85168-332-1
  • Cejka, Marek. Israel and Palestine - The past, present and Direction of the Middle Eastern Conflict (Barrister and Principal, 2005), ISBN 978-80-87029-16-9
  • David, Ron. Arabs & Israel for Beginners (Writers and Readers Publishing, Inc. 1996), ISBN 0-86316-161-8
  • Dowty, Alan. Israel/Palestine (Polity, 2005), ISBN 0-7456-3202-5
  • Eran, Oded. "Arab-Israel Peacemaking." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002.
  • Fraser, T. G. The Arab–Israeli Conflict. 2nd ed. (Palgrave Macmillan, 2004), ISBN 1-4039-1338-2
  • Gelvin, James L. The Israel-Palestine Conflict: One Hundred Years of War (Cambridge University Press, 2005), 0521618045
  • Harms, Gregory with Todd M. Ferry. The Palestine-Israel Conflict: A Basic Introduction (Pluto Press, 2005), ISBN 0-7453-2378-2
  • Hirst, David. The Gun and the Olive Branch. 3rd ed. (Nation Books, 2003), ISBN 1-56025-483-1
  • Hurewitz, J. C. The Struggle for Palestine (Shocken Books, 1976), [out of print]
  • Karsh, Efraim. Arafat's War: The Man and His Battle for Israeli Conquest. New York: Grove Press, 2003.
  • Khouri, Fred J. The Arab–Israeli Dilemma. 3rd ed. (Syracuse University Press, 1985), ISBN 0-8156-2340-2
  • Morris, Benny. Righteous Victims: A History of the Zionist–Arab Conflict, 1881–2001 (Vintage Books, 2001), ISBN 0-679-74475-4
  • Morris, Benny. 1948: The History of the First Arab-Israeli War. New Haven: Yale University Press, 2008.
  • Mandel, Neville J. The Arabs and Zionism Before World War I (University of California Press, 1976), [out of print]
  • Ovendale,Ritchie. The Origin of the Arab-Israeli Wars, (Pearson Education, Edinburgh (1984), 2004 4th revised ed.
  • Pappe, Ilan A History of Modern Palestine: One Nation, Two Peoples: Second Edition (Cambridge: Cambridge University Press, 2006)
  • Roraback, Amanda. Palestine in a Nutshell or Israel in a Nutshell (Enisen Publishing, 2004), ISBN 0-9702908-4-5
  • Safran, Nadav. Israel: The Embattled Ally (The Belknap Press, Harvard, 1978), [out of print]
  • Sela, Avraham. "Arab-Israeli Conflict." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002. pp. 58–121.
  • Shlaim, Avi. The Iron Wall: Israel and the Arab World (London: Penguin Books, 2000), ISBN 978-0-140-28870-4
  • Smith, Charles D. Palestine and the Arab–Israeli Conflict. 5th ed. (Bedford/St. Martin’s, 2004), ISBN 0-312-40408-5
  • Sykes, Christopher. Crossroads to Israel (Cleveland: The World Publishing Company, 1965), [out of print]
  • Tessler, Mark. A History of the Israeli–Palestinian Conflict (Indiana University Press, 1994), ISBN 0-253-20873-4
  • Thomas, Baylis. How Israel Was Won (Lexington Books, 1999), ISBN 0-7391-0064-5
  • Wasserstein, Bernard. Israelis and Palestinians (Yale University Press, 2003), ISBN 0-300-10172-4

Phân tích[sửa]

Hư cấu[sửa]

Liên kết ngoài[sửa]

Chính phủ và các nguồn chính thức[sửa]

Truyền thông khu vực[sửa]

Israel
Ả rập

Các nhóm cố vấn và Phân tích chiến lược[sửa]

Những đề xuất hoà bình[sửa]

Xem bài chính: Danh sách những đề xuất hoà bình Trung Đông

Bản đồ[sửa]

Các nguồn chung[sửa]

Liên kết đến đây