Bệnh mốc hồng (hại bắp)

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Bệnh mốc hồng bại bắp được gây ra do nấm Fusarium moniliforme J. Sheld. 1904.

Bệnh mốc hồng là một trong những bệnh có ý nghĩa kinh tế biểu hiện trên hạt sau thu hoạch. Bệnh phổ biến ở tất cả các vùng trồng bắp của Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Bệnh có thể xuất hiện và gây hại ngay từ giai đoạn bắp bước vào giai đoạn chín, sau đó lưu tồn ngay trong hạt bắp và tiếp tục phát triển gây hại trong giai đoạn bảo quản, chế biến.

Triệu chứng bệnh[sửa]

Bệnh mốc hồng hại bắp có triệu chứng đặc trưng là trên trái bắp có từng chòm hạt bắp mất sắc bóng, màu nâu nhạt, trên đó bao phủ một lớp nấm xốp, mịn màu hồng nhạt. Hạt bệnh không chắc mẩy, dễ vỡ và dễ long ra khỏi lõi khi va đập mạnh, hạt bị bệnh mốc hỏng, mất sức nảy mầm hoặc nảy mầm rất yếu, mầm mọc ra bị chết ở trong đất khi gieo.

Trái bắp và hạt bắp trong thời kỳ chín và trong thời gian bảo quản có thể bị nhiều loại nấm hại làm hạt mốc hỏng trong đó có bệnh mốc hồng Fusarium moniliforme và mốc đỏ Fusarium graminearum là rất phổ biến và gây tổn thất đáng kể, gây độc cho người và gia súc.

Nguyên nhân gây bệnh[sửa]

Nấm Fusarium moniliforme có tản nấm phát triển, sinh ra hai loại bào tử: một là loại bào tử nhỏ (micro conidia) rất nhiều, có hình trứng, kích thước 4-30 x 1,5-2 µm không màu, đơn bào (đôi khi có một ngăn ngang) tạo thành chuỗi hoặc trong bọc giả trên cành bào tử phân sinh ngắn. Loại bào tử thứ hai là bào tử lớn (macro conidia) hình cong lưỡi liềm, đa bào, có nhiều ngăn ngang (3-5 ngăn ngang), kích thước 20-90 x 2-25 µm, không màu.

Rất hiếm trường hợp nấm tạo ra hạch nấm tròn, đường kính 80-100 µm. Trên tàn dư cây bệnh, áo bắp vào cuối vụ thu hoạch nấm có thể hình thành quả thể có lỗ hình trứng, tròn, màu nâu đậm, bên trong có nhiều túi (ascus) và bào tử túi hình bầu dục, có 1 vách ngăn ngang kích thước 10-24 x 4-9 µm. Ở giai đoạn hữu tính này nấm gọi là Gibberella fujikuroi, nguồn bệnh chủ yếu bảo tồn ở dạng sợi nấm sống tiềm sinh trên tàn dư cây bắp, áo bắp và hạt bắp.

Nấm F. graminearum có tản nấm rất phát triển ăn sâu vào bộ phận bị bệnh, khác trên bắp với nấm F. moniliforme, nấm F. graminearum thường không sinh ra loại bào tử nhỏ mà chỉ có bào tử lớn hình bầu dục cong, hình lưỡi liềm cong, nhiều vách ngăn ngang (3-6 ngăn), kích thước 25-75 x 3-6 µm tế bào gốc của bào tử có chân rõ rệt. Trên tàn dư cây bệnh, nấm có thể tạo ra quả thể có lỗ (perthecium) bên trong chứa nhiều túi và bào tử túi, giai đoạn hữu tính được gọi là Gibberella saubinetii.

Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh[sửa]

Một dạng bệnh tương tự rất khó phân biệt với triệu chứng bệnh mốc hồng là bệnh mốc đỏ do nấm Fusarium graminearum gây ra vào thời kỳ bắp có bắp đến thu hoạch. Thường thì bệnh phát sinh từ đầu chót bắp lan vào trong toàn bắp bao phủ một lớp nấm màu hồng đậm hay đỏ nhạt, áo bắp và hạt bị bệnh có màu đỏ gạch non. Hạt dễ vỡ, bên trong hạt có thể rỗng chứa một đám sợi nấm. Nếu bắp bị bệnh sớm thì không hình thành hạt, lõi bị phân huỷ.

Bệnh thường gây hại mạnh ở giai đoạn bắp có bắp đang chín sữa đến chín sáp và ở giai đoạn sau khi thu hoạch, áo bắp và hạt trên bắp đều có thể bị bệnh hủy hoại nhất là trong điều kiện ẩm độ cao và nhiệt độ cao.

Các giống bắp trong thời gian bảo quản thuộc Lào Cai (bắp thường Sa Pa, bắp địa phương), Sơn La (Hát Lót, Cò Nòi); Hà Nội (vùng Đông Anh, Gia Lâm); Hoà Bình (Kỳ Sơn, Tân Lạc, thị xã Hoà Bình); Thái Nguyên (Đại học Nông Lâm, TP. Thái Nguyên); Bắc Ninh (Tiên Du, Yên Phong, Gia Lương); Nam Định (Giao Thủy , Vụ Bản, TP. Nam Định); giống bắp lai số 6, bắp nếp đều xuất hiện hai loại nấm này.

Biện pháp phòng trừ[sửa]

  • Thu hoạch bắp cần đảm bảo đúng thời gian chín, không thu hoạch muộn.
  • Loại bỏ các bắp hạt bị bệnh trước khi bảo quản. Các trái bắp và hạt cần sấy, phơi khô kiệt đến độ ẩm cho phép ≤ 13% và bảo quản trong nhiệt độ thấp, mát, thoáng khí, không ẩm ướt.
  • Thu dọn, tiêu hủy tàn dư cây sau thu hoạch.
  • Xử lý hạt giống bằng thuốc trừ nấm để chống mầm mốc trong bảo quản và trước khi gieo trồng.
  • Các hạt bắp mốc hồng, mốc đỏ cần loại bỏ không dùng làm giống và sử dụng vì nấm có thể sinh sản ra các độc tố có tác hại cho cơ thể con người như độc tố Fumonisin gây bệnh ung thư vòm họng, gan hoặc độc tố Trichothecen gây nôn mửa, đau đường tiêu hóa...

Ghi chú[sửa]

Nội dung về bệnh học thực vật trình bày ở trên được tham khảo từ Giáo trình Bệnh cây Chuyên khoa (chủ biên: Vũ Triệu Mân, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, năm xuất bản: 2007).[1] Từ khi lên trang, nội dung đã được cập nhật bởi cộng đồng BVTVwiki.

Xem thêm[sửa]

Tham khảo[sửa]

  1. http://ebook.moet.gov.vn/?page=1.32&view=2007

Liên kết đến đây