Danh từ Khoa học, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn/4
Chương IV Qui tắc đã theo
Sau khi xem xét kỹ những nguyên tắc trên, tôi đã định theo sự tiến hoá thiên nhiên của Việt âm mà tham dụng cả ba phương sách.
Mỗi khi đặt một chữ, tôi bắt đầu nghĩ nên theo phương sách nào, sau khi quyết định tôi lại nghĩ để xem dùng phương sách ấy ra làm sao. Quy tắc đã theo có thể liệt kê ra sau đây:
A. CHỌN PHƯƠNG SÁCH[sửa]
1. Một chữ Pháp thường có nhiều nghĩa. Tôi kiếm những nghĩa thuộc về khoa học hay là cần dùng trong sự lập luận khoa học. Rồi mỗi nghĩa đặt theo một chữ; chỉ trừ lúc nào những nghĩa ấy xa nhau lắm thì tôi vẫn đặt một chữ mà thôi.
Ví dụ chữ analyse có ý chia, nhưng đúng ra có nhiều nghĩa gần nhau. Một nghĩa thuộc về triết học: luận lý đi từ kết quả đến nguyên nhân. Tôi dùng chữ phân giải. Khi đặt vào câu, có lúc nói phép phân giải, hoặc là sự phân giải: raisonner par analyse là lý luận theo phép phân giải và analyse d'une question là sự phân giải một vấn đề. Nghĩa thứ hai là chia rẽ ra từng phần. Tôi lấy chữ phân tích. Analyse de la lumière là phân tích ánh sáng. Nghĩa thứ ba thuộc về toán học, nó bao hàm hết cả các môn khảo cứu về phương trình và hàm số. Tôi gọi ý ấy là giải tích.
2. Lúc đã chia ra từng nghĩa và nhận nghĩa ấy rõ ràng rồi, tôi bèn nghĩ xem ý ấy thông thường hay là đã vào trình độ khá cao, mà người khoa học không cần hiểu tới.
Nếu ý thông thường thì tôi gắng tìm chữ thông thường mà đặt, để làm sao khi nào đọc tiếng lên có thể đoán được nghĩa. Ví dụ chữ zéro là một số chỉ sự không có. Vì toán học ta chưa cần đến ý ấy nên tiếng thông thường ta không có. Nay dùng tiếng gì. Nên phiên âm chăng? Những người đã học toán học bằng pháp văn thì có lẽ nghe tiếng phiên âm dê-rô là hiểu ngay. Nhưng đối với người chưa học thì đó là một tiếng lạ chỉ một ý rất quen. Vậy nên tôi dùng chữ số không. Nó đủ nghĩa, dễ nhớ, gọn gàng, đọc lên đoán được nghĩa. Chỉ hiềm là trong một câu, tiếng không có thể hiểu lầm ra một trạng từ mà thôi; nhưng sự đó không hề chi, tiếng nào cũng vậy, mà nhất là tiếng ta, chức vụ một chữ trong một câu dễ lầm lẫn. Người dùng chữ phải tránh đặt câu ỡm ờ mà thôi. Và dùng dấu gạch nối là một cách rất điệu để tránh khỏi sự lầm lẫn ấy. Người Nhật dùng tiếng rê, người Tàu dùng tiếng linh. Tiếng rê có sự bất tiện của chữ phiên âm, còn tiếng linh dùng vào tiếng ta lại thành nghĩa lẻ, như trong câu 1005 là một nghìn linh năm.
Cũng vì định ý dùng chữ thông thường để chỉ ý rất thông thường mà tôi đã dùng những tiếng thẳng góc, song song, đứng thẳng, nằm ngang mà chỉ những ý perpendiculaire, parallèle, vertical, horizontal.
3. - Lúc nào không dùng tiếng thông-thường hoàn toàn được thì tôi phải lấy gốc ở chữ nho. Đây tôi lấy hai điều-kiện " dễ nhớ đến nghĩa và gọn gàng " làm chủ. Sau khi chọn gốc ở chữ nho, tôi chắp nó vào tiếng khác cốt sao cho khỏi lầm nghĩa chữ nầy với chữ kia. Ví-dụ ý isotherme là một ý cũng khá thông-thường, nghĩa đen nó là nóng đều, nhưng dùng ra không đúng nghĩa như vậy chính nghĩa là nhiệt-độ không đổi. Dùng toàn tiếng thông-thường cả thì phải nói như vậy. Đó không phải một danh-từ nữa mà là một câu. Nên tôi dùng tiếng đẳng-nhiệt, vừa gọn gàng vừa có gốc làm cho dễ nhớ ý. Cũng vì những lẽ ấy mà tôi đặt những chữ như nội-tiếp, ngoại-tiếp, bàng-tiếp để chỉ inscrit, circonscrit, và exinscrit.
4. Nhiều lúc, ý rất thông-thường mà không thể dùng tiếng thông- thường hay là gốc nho dễ hiểu mà chỉ được. Bất đắc dĩ tôi phải dùng những gốc hán-tự khó hiểu cho những người không học chữ nho tí nào.
Ví dụ ý sublimer là từ chất rắn hóa ra chất hơi. Không thể diễn ra bằng tiếng bay hơi hay bốc hơi. Trong văn thường thì người ta có thể nói nước đá bốc hơi. Nhưng về khoa-học thì tôi dùng tiếng thăng-hoa, để khỏi lầm với ý évaporer. Nói thực ra thì ta có thể tự ý định-nghĩa rằng évaporer là bốc hơi, và sublimer là bay hơi. Nhưng không có lý gì ta có thể định như vậy. Cũng vì lẽ ấy mà lôi phải dùng chữ dung-dịch để chỉ solution nghĩa là một chất nước, hoặc một chất rắn có một chất rắn khác hòa tan trong.
5. Khi nào ý không thông-thường nữa và thuộc vào bực cao, nếu dùng được chữ thông-thường càng hay, không thì cũng không ngại gì. Ví dụ ligne de courbure là một đường vẽ trên một mặt, qua một điểm nhất định, tại điểm đó độ cong của nó là lớn hơn nhất hay là bé hơn nhất tất cả các đường vẽ trên mặt và cũng qua điểm đó. Tôi dùng tiếng đường chính-khúc, nếu có ai cho rằng không được thông-thường thì cũng chẳng hề chi. Cũng vì vậy mà tôi gọi spectre lumineux là quang-phổ, énergie potentielle là thế-năng. Chính những ngườỉ Pháp, chưa học tới toán-học và vật-lý-học cao-cấp, cũng không hiểu những tiếng Pháp ấy là gì. Chữ đặt trên gọn và không lầm với chữ chỉ ý khác, và đối với các nhà toán-học và lý-học, nó có gốc làm chữ dễ nhớ nghĩa.
6. Nếu dùng tiếng thông-thường không dược và dùng gốc nho cũng không lợi, thì tôi dùng tiếng phiên-âm. Tôi dùng tiếng phiên-âm trong hai trường-hợp. Một là vì người ta đã dùng nó từ lâu, mà nay dùng không hại cho sự khoa-học. Ví dụ như tiếng pin là pile, bu-/ong là boulon. Trường-hợp thứ hai là đối với những tiếng rất chuyên-môn, mà ít dùng ngoài phạm-vi khoa-học, như những tên các đơn-vị, tên các đường, các mặt về toán-pháp cao-cấp, tên các hiện-trạng không tả ra bằng tiếng nho hay tiếng thông-thường được và nhất là tên tất cả các chất hóa-học. Ví-dụ : mét là mètre, gờ-rat là grade, at-môt-phe là atmosphère, cô-nic là hình conique, ca-thê-nô-ít là mặt cathénoide. êu-tec-ti là eutectie, a-cit là acide, pen-tan là pentalle.
Nhưng cũng không phải tôi phiên-âm tất cả những ý ở trong trường hợp ấy. Chữ nào mà đã thành quốc-tế, không thì ít ra cũng chung âm ở tiếng Pháp Anh, hay Pháp Đức, thì tôi mới dùng phương-sách ấy.
B. DÙNG PHƯƠNG SÁCH[sửa]
Trên nầy tôi nói về cách chia ý và chọn phương-sách. Nói tóm lại, nếu tiếng Pháp có nhiều nghĩa gần nhau, mỗi nghĩa tôi đặt một tiếng. Nếu những nghĩa ấy xa nhau, tôi chỉ đặt một tiếng. Tôi gắng dùng tiếng thông-thường để chỉ những ý rất thông-thường. Nếu không được thì tôi dùng gốc nho, tìm gốc dễ nhớ trước ; nếu cũng không được thì tôi dùng gốc khó. Lúc nào tiếng rất chuyên-môn và có tính-cách quốc-tế thì tôi dùng lối phiên-âm.
Sau này tôi lại bàn đến việc sau khi phương-sách chọn rồi dùng phương-sách ấy thế nào.
Lúc dùng tiếng thông-thường thi tôi không nệ tiếng Nam hay Bắc. Tôi theo ý mà chúng tôi đã định trong khi làm lại bộ Việt-nam tự điển của ban văn-học Khai-trí tiến-đức, những tiếng dùng riêng của mỗi xứ nay ta phải để chung chớ không phân-biệt như trong một vài tự- điển trước. Vậy chữ nào dùng được thì tôi dùng. Tôi viết theo lối Nghệ- tĩnh là lối không lầm về chữ mẫu-tự đứng đầu hay mẫu-tự đứng cuối chữ. Còn dấu thì tôi theo lối xứ Bắc là có phân-biệt rõ ràng dấu hỏi, ngã và nặng. Tôi tham-dự vào việc làm lại Việt-nam tự-điển trong năm năm nay, nên tôi đã dùng một vài điều đã kinh-nghiệm. Ngoài những ý riêng thì tôi dùng các tự-điển có sẵn nhất là Tự-điển Trương-vĩnh-Ký, Tabert, Bavier, PGV và Pháp-việt-hán tự-điển Đào-duy-Anh. Nhưng những quyển ấy không phải chuyên-môn nên tuy có ích, nhưng sót và sai cũng nhiều.
Vả nhiều khi một chữ mới xem qua tưởng là hay lắm, nhưng lúc thí-nghiệm dùng thì mới thấy không dùng phổ-thông được. Ví dụ chữ robinet ai chả bảo là vòi nước, nói rộng ra thì vòi rượu, vòi hơi. Nhưng xét kỹ thì ta thấy rằng vòi là chỉ một bộ phận chìa ra ngoài và có hình ống cong. Dịch robinet ra vòi là chỉ lấy hình-thức mà thôi. Nhưng thực ra nhiều robinet không có vòi. Robinet chỉ là bộ-phận làm cho nước, hơi hoặc khí chảy thông hay không. Nhưng không phải là cái nút. Tôi dùng tiếng khóa nước hay khóa hơi. Lúc nào mà cái khóa ấy có hình vòi thì tôi gọi là vòi nước, vòi khí.
3. Tiếng thông-thường có khi có sẵn trong thường-ngữ hoặc trong văn-chương, tôi chỉ cần áp dụng cho thích-hợp mà thôi, ví dụ như những tiếng nóng chảy là fondre, đều đặn là régulier trong polygone régulier, đều là những tiếng ta thường dùng trong thường-ngữ ; tiếng song song thay cho song-hành là một tiếng có sẵn trong văn-chương ta, (trong câu : hai hàng gót ngọc đứng song song). Nhưng nhiều khi những tiếng mình không đúng với nghĩa khoa-học thì tôi phải ghép những tiếng thông-thường lại mà đặt. Ví dụ ý précipiter về hoá học là nói lúc ta rót một chất nước trong vào một chất nước trong khác, tự nhiên ta thấy một chất đặc hiện ra tua tủa và dần dần lắng xuống. Người Tàu dùng hai chữ trầm-điện. Tuy là một hiện-tượng rất quen, ta không có danh- từ để gọi. Tôi lấy hai ý : kết thành và tủa ra mà gọi kết tủa. Précipiter là kết tủa, précipitation là sự, phép kết-tủa, précipité là vật kết-tủa, chất kết tủa v...v...
4. Khi kiếm chữ thông-thường không có thì tôi xem những sách danh-từ khoa-bọc, tự-điển thường hay khoa-học của Trung-hoa và Nhật-bản, và các sách giáo-khoa của hai nước ấy. Vì chiến-tranh, tôi không có đủ những sách muốn xem, nhưng trong lúc khảo-tra, tôi đã dùng nhiều sách, nhất là Toán-học từ-điển, Vật-lý-học danh-từ, Thiên-văn-học danh-từ, Lý-hóa từ-điển, Bách-khoa-danh-vựng, Vật-lý-học tự-điển, Pháp Hán khoa-học từ-điển và nhiều sách giáo-khoa sơ-cấp và cao-cấp của Trung-hoa và Nhật-bản.
Lúc nào chữ của Trung-hoa và Nhật-bản có thể dùng được thì tôi lấy văn của họ rồi tôi diễn ra âm ta. Nhưng khi nào có lẽ gì làm tôi không nhận, thì tôi sửa chữa mà đặt danh-từ mới. Những trường-hợp thay đổi, tôi sẽ kể sau.
5. Nếu chữ người đặt dài quá thì cắt ngắn đi, như chữ đạo-hàm-số thi tôi chỉ lấy đạo-hàm (dérivée), lưu-thể-tịnh-lực-học thì tôi lấy thủy-tịnh-học (hydrostatique). Có lúc chữ tôi đặt thế đối với người thông chữ nho thì thiếu nghĩa, nhưng sự ấy cũng chẳng hề chi. Kể thực, thì danh-từ của Trung-hoa dùng ngày nay rất là gọn, phần nhiều tôi chỉ phải bớt một tiếng mà thôi.
6. Nếu chữ họ dùng đối với ta khó nhớ vì không có gốc dễ hiểu, tôi đổi lại cho hợp với cách hiểu của ta hơn. Ví-dụ tiếng kỷ-hà là géométrie, tôi đổi lại hình-học, tiếng tọa-tiêu là coordonnée tôi đổi lại là tọa-độ.
7. Có nhiều chữ của họ khi dùng trong tiếng ta, lại làm hiểu lầm nghĩa, nhất là lúc dùng một mình. Ví dụ tiếng hạng là terme. Dùng ra tiếng ta thì lại hiểu là catégorie, classe. Cho nên tôi đổi ra hạng-thức, nhưng ý ấy lúc vào trong những ý kép như monôme, polynôme, tôi lại chỉ dùng tiếng thức mà thôi. Monôme : đơn-thức, polynôme là : đa-thức.
8. Nombre positif và nombre négatif, người Trung-hoa theo chữ gọi là chính-số và phụ-số. Ý chính và phụ không đúng, nên tôi đổi là số âm và số dương. Đó là một thí-dụ trong nhiều trường-hợp như vậy. Mỗi lúc nhận thấy chữ của người đặt không hợp lẽ, nhưng đặt ra đời trước nay quen dùng nên họ vẫn giữ, thì tôi không có lẽ gì giữ cái không hay của họ, nên tôi đổi.
9. Mỗi lúc mà có thể đảo hai ý trong một danh từ để cho phần bị chỉ định lên trên và phần chỉ định xuống dưới, thì tôi đảo lại để cho thành tiếng Việt nam. Khi nào ý kép gồm có hai phần và có ít ra là ba tiếng thì tôi đều đảo lại. Ví dụ coordonnée géocentrique, Trung hoa và Nhật bản gọi là địatâm tọa tiêu, thì tôi gọi là tọa độ địa tâm; nombre fondamental tôi gọi là số cơ bản chớ không gọi cơ bản số. Nhưng khi nào tuy chữ có ba tiếng nhưng ý không phải kép thì tôi cũng để nguyên không đảo, ví đụ nhiệt lượng kế là calorimètre.
10. Lúc nào chữ kép mà chắp hai âm lại thành ra thì tùy theo những âm ấy quen lắm hay không mà tôi đảo lại hay để ngược. Ví dụ pôle magnétique tôi đặt là từ cực, chớ gọi cực từ thì dễ lầm nghĩa. Còn point mobile thì tôi lại gọi là điểm động vì không sợ lầm nghĩa. .
11. Nhiều khi cũng một ý ấy mà nơi dùng âm nôm, nơi dùng âm chữ nho. Đó là có ý kép có chữ đi kèm, nên muốn tránh sự lầm lẫn mà phải đổi như vậy. Angle de rotation thì tôi gọi là góc quay mà angle de dépression thì phải gọi là phủ giác. nếu ý sau gọi là góc lõm xuống thì lại sai nghĩa của ý. Còn ý trên thì nếu gọi là toàn giác thì có lợi hơn góc quay vì góc quay có thể hiểu ra angle tournant, nhưng hai ý nầy xa nhau, nên dễ phân biệt, tôi đã dùng tiếng thông thường mà bỏ tiếng chữ nho.
Thí dụ thứ hai là cũng ý angle ấy nhưng dùng vào trong ý khác.
Triangle thì tôi dùng tiếng tam giác, là pentagone thì tôi dùng hình năm góc. Đặt như thế vì chữ sau không mấy khi đi với chữ khác thành ý đôi hay dùng, còn chữ trước thì luôn luôn đứng cạnh chữ khác và rất hay dùng. Chữ sau thì tôi có thể theo qui tắc dùng tiếng thông thường trước tiếng gốc nho. Nhưng chữ trước nếu làm như vậy thì lại dễ sinh sự lầm lẫn nghĩa. Chữ tam giác ghép thành tam giác đều cạnh, tam giác đều góc, tam giác vuông góc.
Chính chữ Pháp về ý góc mà cũng dùng cả hai tiếng angle và gone.
12. Khi gặp chữ định đặt theo phương sách gốc nho mà tôi không thấy chữ đặt của Trung hoa và Nhật bản thì tự tôi đặt lấy. Có lẽ chữ ấy không được " Trung hoa " lắm, nhưng sự ấy cũng không hề chi. Từ khi ta lấy chữ nho mà làm giàu thêm Việt ngữ, ta đã đặt biết bao nhiêu chữ " dốt " như vậy, mà nó cũng dã dùng quen. Ví dụ lục lộ, thương chánh vân vân.
13. Khi nào tôi đã định dùng lối phiên âm, thì tôi cũng phân chữ làm hai hạng. Nếu chữ chỉ một ý mà nay đã thông thường, hoặc đã có phiên âm từ trước thì tôi theo phiên âm sẵn. Thỉnh thoáng tôi có đổi chút đỉnh để cho đúng tiếng nguyên gốc của nó mà thôi Ví dụ savon thì tôi lấy xa-vông (tiếng thường nói là xà phòng) hoặc ciment thì tôi để xi măng (tiếng thường nói xi-mong hoặc xi-mo).
Còn những tiếng mà chỉ có người học chuyên môn cần, hoặc ít dùng ra ngoài phạm-vi khoa-học, thì tôi chú-trọng về cả âm, về cả tự- dạng. Những chữ ấy phần nhiều là quốc-tế, không thì ít ra cũng mấy vần chính là quốc tế, nên tôi không toàn theo âm Pháp. Và nhiều lúc tôi chịu sai âm mà gắng lấy tự-dạng đúng. Đó là có lợi trong sự nhận những chữ ấy trong khi dùng sách báo chuyên-môn của nước ngoài.
14. Muốn đạt mục-đích ấy, tôi nghĩ phải thêm vào vần quốc-ngữ mình nhiều vần thiếu, mà nay ta cần dùng, như vần p, vần z, ce, ci, cê (đọc xe, xi, xê) và những vần trắc ol và al mà không có thể cho lầm với on và an được.
Về tên hoá-học, tôi hoàn-toàn dùng lối phiên-âm. Nhưng tên các chất hoá-học có hơn bốn mươi vạn. Tôi có đặt một danh-pháp tương-tự như danh-pháp của các tiếng Âu-châu để có thể đặt tất cả những chất về khoáng-chất và một phần ít chất hữu-cơ. Sau nầy, tôi có một chương riêng nói về danh-từ hóa học.
15. Trong tập danh-từ nầy, tôi rất hay dùng cái gạch-nối. Vấn-đề cái gạch-nối đã có nhiều người bàn. Kẻ bảo nên bỏ vì sự in, sự viết lôi thôi. Kẻ bảo nên thông-dụng vì nó có lợi làm rời hẳn một nhóm chữ trong câu, cho nên nghĩa nó rõ ràng. Tôi cũng đồng ý với những người sau nầy. Tiếng nước mình còn vào trình-độ hàm-hồ, vì thế nên có nhiều câu có thể giảng ra nhiểu nghĩa. Sự ấy đối với thơ không những không quan-ngại mà còn làm cho câu thơ mình nhiều khi ngắn ngủi mà hàm nhiều tứ. Nhưng đây là tôi nói đến việc thực-tế, như trong khoán-ước, trong văn-từ khoa-học. Có cách gì làm thêm rõ nghĩa câu văn thì ta nên làm ; nào cách dùng chữ, nào cách đánh dấu, ta đều nên để ý tới. Chắc ai cũng biết rằng văn nôm ta khi trước, cũng như văn chữ Hán, không chấm câu, nên những người chưa thông khó lòng mà hiểu được. Nay ta dùng chữ la-tinh có cái lợi vô ngần là có thể dùng được tất cả các dấu của họ. Như vậy, không có lý gì mà ta không dùng dấu gạch-nối. Còn sự ấn- loát hoặc viết, thì cũng có phiền phức thực, nhưng dấu nào cũng gây ra điều phiền phức như vậy. Dấu gạch-nối tuy nhiều hơn các dấu khác, nhưng thử xem các nước Trung-hoa và Nhật-bản họ còn bị nhiều điều bất-tiện bằng mấy ta nữa, mà họ cũng không bỏ lối chữ họ đi. Xin đừng tưởng họ dại hơn mình.
Còn có cách nữa là viết liền chữ lại. Tuy là có lợi lắm, nhưng sợ táo-bạo quá, ít người hưởng-ứng, nên tôi không dùng.
Nay mới bắt đầu dùng tiếng khoa-học một cách lan rộng ta còn mong sẽ dùng nó về giáo-khoa và thực-hành. Nên những chữ mới cần thấy rõ ràng trong câu viết, để câu thêm rõ nghĩa. Sau nầy, lúc tiếng đã phổ-thông thì bỏ một phần gạch-nối cũng chẳng hề chi.
Trong những chữ phiên-âm tôi lại còn bỏ dấu sắc trên các chữ có vần trắc mà cuối cùng có c, ch, p, t. Vấn đề bỏ dấu huyền, sắc, nặng, hỏi hiện dùng và thay bằng cách ký-hiệu khác, đây tôi không tiện bàn đến, nhưng dấu sắc trên các vần kia thì thật là vô ích. Tôi nghĩ bỏ đi cũng đỡ được một phần. Cùng trong những chữ phiên-âm, tôi còn thay chữ đ bằng d, và vần d bằng vần z.
Hà Nội, 1942
Chú thích[sửa]
[1] Vì thiếu sự suy xét ấy nên đã có người dịch exposition culturelle chinoise ra triển lãm sự trồng trọt Trung quốc.
[2] Nhưng nay người Trung quốc đã bỏ rồi và chỉ dùng chữ Khinh. Người mình hay có tính bắt chước mà không hay thay đổi. Áo quần ta mặc còn theo lối nhà Tống !
[3] Một thí dụ nữa là lịch dân quốc của Chính thể cách mạnh Pháp đặt ra năm 1793, rất hợp lý , tên tháng, tên ngày do một nhà thi sĩ trứ danh đặt rất hay : " tháng mọc mầm, tháng trổ hoa..." Thế mà chỉ sống có một thời gian ngắn ngủi.
[4] Mới đây, ông Đặng Dư, người phủ Diễn Châu, có bàn nên dùng lối nói lái của ta. Đó là một phương sách cũng hay và tiện. Nhưng tiếng Việt đặt ra có các điều bất lợi của phương sách dùng tiếng thông thường mà lại không có những điều lợi của nó. Dùng vào cho những ý cực kỳ chuyên môn có thể hay; chó không nên ứng dụng cho những khoa học cơ bản.
[5] Tôi có dịp gởi ý kiến một vị giáo sư ngữ học ở Kyoto là ông Izui thì ông cũng nói như vậy.
[6] Những chỗ đánh dấu * vốn là chữ Hán trong nguyên bản, chương trình nhận dạng tôi dùng để nhận dạng bài này không hiểu chữ Hán và tôi cũng dốt Hán tự. Đành xin lỗi các bạn vậy. (Trần Lưu Chương)
[7] Theo bài tựa Thiên văn học danh từ của ông Trần-khả-Trung.
[8] Sau khi tôi trình bày vấn đề danh từ khoa học bằng tiếng Việt Nam tại "Hội nghị khảo cứu khoa học" thì ông hội trưởng có cho hay rằng ở Xiêm người ta cũng dùng ba lối trên, và ông nói đó cũng là một luật thiên nhiên của ngữ học. Ông hội trưởng hồi ấy là ông Cadès, giám-đốc Viễn-Đông Bác-cổ viện và là một nhà ngữ học trứ danh.
Mục lục[sửa]
- Chương I. Tính cách một danh từ khoa học
- Chương II. Phương sách đặt danh từ
- Chương III. Gương trước
- Chương IV Qui tắc đã theo