Loại hình ngôn ngữ đơn lập
Đây là một trong bốn loại hình ngôn ngữ quan trọng của thế giới: loại hình ngôn ngữ đơn lập, loại hình ngôn ngữ chắp dính, loại hình ngôn ngữ hòa kết, loại hình ngôn ngữ lập khuôn.
Ở đây có hai cách hiểu: đơn lập về ngữ âm và đơn lập về ngữ pháp. Đơn lập về ngữ âm giống như tính đơn tiết của từ hay hình vị. Đơn lập về ngữ pháp nói đến tính độc lập của từ hoạt động trong câu do đặc điểm cấu tạo từ không có sự phân chia thành căn tố và phụ tố.
Đặc điểm[sửa]
Về ngữ pháp[sửa]
Xét về mặt cấu tạo, trong cấu trúc của từ không có sự phân chia hai bộ phận: thực (căn tố) và hư(phụ tố). Đặc điểm này khác với ngôn ngữ Ấn-Âu, từ được cấu tạo bởi hai bộ phận: một bộ phận mang ý nghĩa từ vựng (căn tố) và một bộ phận mang ý nghĩa ngữ pháp (phụ tố). Từ trong ngôn ngữ đơn lập do căn tố hoặc sự kết hợp giữa các căn tố tạo thành.
Xét về mặt hình thái từ: Từ không biến đổi hình thái.
Quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp được thể hiện bằng các phương tiện ngoài từ: trật tự từ, hư từ, ngữ điệu
Ví dụ:
-
Trật
tự
từ:
- cửa trước - trước cửa
- xanh mắt - mắt xanh
- nhà nước - nước nhà
-
Hư
từ:
-
đọc
- đã đọc
- đang đọc
- sẽ đọc
-
cuốn
vở
- những cuốn vở
-
đọc
Phạm trù từ loại không được thể hiện rõ ràng bằng các dấu hiệu hình thức. Người ta chỉ có thể nhận diện từ loại dựa vào khả năng kết hợp và cương vị cú pháp.
Ranh
giới
giữa
cụm
từ
và
từ
ghép
khó
phân
biệt
rõ
ràng.
Ví
dụ:
"xe
đạp"
-
cụm
từ
hoặc
từ
ghép
Mệnh
đề
không
được
đánh
dấu
rõ
ràng
Ví
dụ:
-
"Cô
gái
này
rất
đẹp"
là
kết
cấu
chủ
vị
- "Một cô gái rất đẹp ngối dưới gốc cây" thì "một cô gái rất đẹp" là danh ngữ, kết cấu ngữ.
Có loại từ
Về ngữ âm[sửa]
Tồn tại mối quan hệ rõ ràng giữa hình vị và âm tiết. Ranh giới giữa hình vị trùng với ranh giới âm tiết tạo nên hình tiết. Hình tiết là một đơn vị có vỏ ngữ âm là âm tiết, có khi được dùng với tư cách một từ, có khi được dùng với tư cách là yếu tố cấu tạo từ.
Âm tiết trong ngôn ngữ đơn lập có cấu trúc chặt chẽ. Mỗi âm vị nằm ở vị trí nhất định, có chức năng nhất định. Trong khi đó, âm tiết trong ngôn ngữ Ấn- Âu là tổ hợp tự do của các âm vị, không có mối quan hệ thứ bậc trong các âm vị trong âm tiết.
Hầu hết các ngôn ngữ đơn lập có thanh điệu
Các tiểu loại[sửa]
Tiêu chí phân loại[sửa]
Dựa trên tiêu chí trật tự từ, loại từ và cấu trúc âm tiết.
Quy ước:
- N : Danh từ trung tâm
- N1 : Danh từ làm định ngữ
- A : Tính từ làm định ngữ
- O : Bổ ngữ
- V : Động từ
- S : Chủ ngữ
Kết quả[sửa]
- Dựa trên tiêu chí trật tự từ chia ra làm 8 loại
- N1N (Danh từ làm định ngữ + Danh từ trung tâm)
- NN1 (Danh từ trung tâm + Danh từ làm định ngữ)
- AN (Tính từ làm định ngữ+ Danh từ trung tâm)
- NA (Danh từ trung tâm + Tính từ làm định ngữ)
- OV (Bổ ngữ + Động từ)
- VO (Động từ +Bổ ngữ)
- VS (Vị ngữ + Chủ ngữ)
- SV (Chủ ngữ +Vị ngữ)
Phân loại dựa vào một cơ sở trong cấu trúc câu: cơ sở trật tự chính giữa các thành phần mà cụ thể là trật tự đối đáp giữa chủ ngữ và vị ngữ, giữa bổ ngữ và động từ, giữa định ngữ và từ được hạn định.
Tiếng Việt có chỉ số 246, Tiếng Hán có chỉ số 136, Tiếng Tây Tạng, Miến Điện có chỉ số 145, Tiếng Mèo, Dao có chỉ số 146
- Dựa vào tiêu chí loại từ
Trong các ngôn ngữ này, danh từ không kết hợp trực tiếp với số từ mà phải có một từ đứng trung gian để chỉ đơn vị: những đơn vị có ý nghĩa chân thực và những đơn vị có tính chất hư : loại từ.
Loại từ có trường hợp bắt buộc - không bắt buộc, có trường hợp đứng trước danh từ - sau danh từ.
Kết quả: Chia làm ba loại
- Loại 1: Số từ + Loại từ + Danh từ
Tiếng Hán hiện đại, tiếng Việt
- Loại 2: Danh từ + Số từ + Loại từ
Tiếng Hán cổ đại, Khmer, Miến Điện
- Loại 3: Danh từ + Loại từ + Số từ
Tiếng Tây Tạng
- Dựa vào đặc điểm cấu trúc âm tiết
-
Loại
1:
Tiểu
loại
hình
cổ:
Tiếng
Hán
cổ,
Khmer,
Tây
Tạng
cổ,
Nam
Á.
-
Vế
mặt
ngữ
âm:
- Đầu âm tiết có thể có tổ hợp phụ âm đầu
- Có hệ thống phụ âm cuối rất phong phú bao gồm các âm xát và các âm l,r
- Chưa có thanh điệu hoặc mới bắt đầu có 1 hệ thống thanh điệu ở giai đoan manh nha.
-
Về
mặt
ngữ
pháp:
- Hình vị chưa thực sự trùng với âm tiết, có thể có tiền tố hoặc hậu tố
- Việc dùng từ loại chưa có tính chất bắt buộc
-
Vế
mặt
ngữ
âm:
-
Loại
2:
Tiểu
loại
hình
trung:
Tiếng
Hán
trung
đại,
tiếng
Việt,
tiếng
Thái,
tiếng
Dao,
PN
Phúc
Kiến,
Quảng
Đông.
-
Về
mặt
ngữ
âm:
- Đầu âm tiết đã mất hết hoặc hầu hết tổ hợp phụ âm đầu
- Âm cuối có sự đối lập giữa âm mũi và phi âm mũi
- Hệ thống thanh điệu phong phú hơn
-
Về
mặt
ngữ
pháp:
- Hình vị về cơ bản trùng với âm tiết
- Không có hiện tượng tiền tố và hậu tố
- Số lượng hư từ nhiều hơn
-
Về
mặt
ngữ
âm:
-
Loại
3:
Tiểu
loại
hình
mới:
PN
Bắc
Kinh,
Miến
Điện,
Mèo
-
Về
mặt
ngữ
âm:
- Hệ thống âm cuối nghèo nàn hoặc triệt tiêu hoàn toàn
- Hệ thông thanh điệu giảm xuống
- Số lượng âm tiết giảm mạnh, số lượng đồng âm tăng lên
-
Về
mặt
ngữ
pháp:
- Nhiều hình vị hư cũng có thể trở thành âm tiết mở, có kinh thanh
- Có hiện tượng dùng hình vị hư để tạo dạng thức cho các thành phần mệnh đề.
-
Về
mặt
ngữ
âm:
|
Bài
này
còn
sơ
khai. Mời bạn góp sức viết thêm để bài được hoàn thiện hơn. Xem phần trợ giúp về cách sửa bài. |