Một số vấn đề về ngữ nghĩa học và từ điển học
1.1. Một số khái niệm cơ bản của ngữ nghĩa học
Dựa vào đặc điểm của ngữ nghĩa học hiện đại là "không chỉ đóng khung trong sự miêu tả, phân loại mà đang chuyển mạnh sang việc phát hiện ra các quy tắc điều khiển các quá trình tạo nghĩa", chấp nhận quan điểm của Đỗ Hữu Châu về sự phân chia ngữ nghĩa học thành hai lĩnh vực: ngữ nghĩa học hệ thống (chủ yếu là ngữ nghĩa học từ vựng) và ngữ nghĩa học hoạt động (nghiên cứu ý nghĩa và sự hình thành ý nghĩa của các đơn vị hành chức của ngôn ngữ, trên quan điểm kết hợp ngữ nghĩa - ngữ dụng), các khái niệm cơ bản của ngữ nghĩa học ở mục này được đề cập đến trong hai tiểu mục nhỏ: ngữ nghĩa học từ vựng và ngữ nghĩa ngữ dụng.
1.1.1. Ngữ nghĩa học từ vựng
1.1.1.1. Nghĩa từ và phân tích nghĩa từ
Có nhiều quan niệm khác nhau về ý nghĩa từ vựng, trong đó chúng tôi chấp nhận quan niệm của Ju. X. Xtepanov cho rằng: "Ý nghĩa của từ phản ánh những đặc trưng chung đồng thời là đặc trưng bản chất của sự vật được con người nhận thức trong thực tiễn xã hội. Ý nghĩa của từ hướng đến khái niệm như là hướng đến cái giới hạn của mình". Quan niệm trên đây cho thấy rõ tính phức tạp và không bất biến của ý nghĩa từ vựng. Sự phức tạp được thể hiện qua các thành phần của nó, theo sự phân chia của L. Zgusta, ngoài nội dung chính nghĩa biểu niệm, "là tập hợp các 'nét tiêu chuẩn', là nội dung tâm lí, khái niệm tương ứng được biểu đạt trong từ", ý nghĩa từ vựng còn bao gồm cả nghĩa biểu thái "bao gồm mọi đặc tính khác nhau của từ cần yếu về mặt ngữ nghĩa" và phạm vi ứng dụng.
Với quan niệm nét nghĩa là "những yếu tố ngữ nghĩa chung cho nghĩa của các từ thuộc cùng một nhóm từ, hoặc riêng cho nghĩa của một từ, đối lập với nghĩa của những từ khác trong cùng một nhóm", Hoàng Phê cho rằng nghĩa từ "là một tập hợp những nét nghĩa có quan hệ quy định lẫn nhau". Các mối quan hệ đó là quan hệ trật tự và quan hệ cấp bậc, chúng làm nên cấu trúc tầng bậc của nghĩa từ. Các từ có cùng một kiểu cấu trúc ngữ nghĩa, tức là có số lượng nét nghĩa như nhau, trật tự và quan hệ giá trị giữa các nét nghĩa giống nhau làm nên hiện tượng đẳng cấu ngữ nghĩa. Phương pháp phân tích cấu trúc nghĩa từ có hiệu quả hơn cả hiện nay là phương pháp phân tích thành tố.
1.1.1.2. Quan hệ từ vựng - ngữ nghĩa
"Các từ trong vốn từ vựng không tồn tại một cách cô lập mà tạo thành những loại, những nhóm cùng loại có tính chất hệ thống nào đó, cùng với một số từ khác." [Ju. X. Xtepanov]. Tính hệ thống này "có mặt trong mọi cấp độ tổ chức từ vựng" [Nguyễn Ngọc Trâm] và được thể hiện ở các hiện tượng đa nghĩa, đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa, ở sự phân chia từ vựng thành các trường từ vựng-ngữ nghĩa.
Đa nghĩa là hiện tượng một từ có nhiều nghĩa, các nghĩa này có thể có liên hệ với nhau về mặt lịch sử - dẫn đến sự phân biệt nghĩa gốc / nghĩa phái sinh, hoặc liên hệ về logic - có nghĩa cụ thể / nghĩa trừu tượng, nghĩa chính / nghĩa phụ; các mối liên hệ này lại tạo nên tính hệ thống chặt chẽ giữa các nghĩa trong từ đa nghĩa. Ngược lại, đồng âm là hiện tượng nhiều từ có nghĩa khác nhau nhưng có vỏ ngữ âm giống nhau. Trong tiếng Việt, đồng âm được phân loại tiếp, theo tiêu chí có hay không có mối liên hệ nguồn gốc - ngữ nghĩa, thành đồng âm cùng gốc và đồng âm ngẫu nhiên.
Nếu như đồng nghĩa "là hiện tượng các từ có hình thức khác nhau nhưng giống nhau về ý nghĩa" và "phản ánh mối quan hệ đồng nhất giữa các từ có cùng ý nghĩa biểu niệm", thì trái nghĩa lại là "hiện tượng những từ khác nhau về ngữ âm, đối lập về ý nghĩa, biểu hiện các khái niệm tương phản về logic, nhưng tương liên lẫn nhau." [Nguyễn Thiện Giáp].
Ở một góc độ khác, người ta lại chia hệ thống từ vựng thành những "tập hợp từ vựng có sự đồng nhất ngữ nghĩa xét theo một phương diện nào đấy (...) để phát hiện ra tính hệ thống và cấu trúc của hệ thống từ vựng về mặt ngữ nghĩa" [Đỗ Hữu Châu] - đó là các trường từ vựng-ngữ nghĩa.
Như vậy, đa nghĩa và đồng âm thể hiện quan hệ về nghĩa trong một từ hoặc trong một từ-ngữ âm; đồng nghĩa và trái nghĩa thể hiện quan hệ giữa các từ trong một nhóm; còn trường từ vựng-ngữ nghĩa thể hiện quan hệ của một tập hợp nhiều đơn vị từ vựng.
1.1.2. Ngữ nghĩa ngữ dụng
Chúng tôi không quan tâm đến toàn bộ đối tượng đa dạng của ngữ dụng học mà chỉ đề cập đến những vấn đề có liên quan trực tiếp đến ngữ nghĩa của từ và ngữ nghĩa của lời. Đó là các vấn đề tiền giả định, ngữ nghĩa của lời và khái niệm tình thái.
Có hai loại tiền giả định: tiền giả định tổ hợp thực chất là "sự phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ ngữ đoạn" [J. Lyons]; phức tạp hơn và cũng quan trọng hơn là tiền giả định nội tại - là điều được giả định trước là đúng để xác định giá trị chân lí của điều được nói ra là đúng hay sai, đó là "những nét nghĩa không có giá trị thông báo chính thức, không chấp nhận bất cứ một sự thuyết minh, một hạn định nào" nhưng lại là "điều kiện bên trong, là một nội dung không thể thiếu được của nghĩa từ" [Hoàng Phê].
Nghĩa của lời là tất cả những gì mà người nói, qua lời, muốn truyền đến cho người đối thoại. Đó không chỉ là nội dung mệnh đề của câu mà còn có những yếu tố khác, những yếu tố tình thái. Hoàng Tuệ cho rằng "tình thái là một khái niệm trong sự phân tích ngữ nghĩa của câu, sự phân tích theo cách nhìn tìm đến thái độ của người nói trong hoạt động phát ngôn, tức cũng là tìm đến tác động ngữ dụng, tác động mà người nói muốn tạo ra ở người nghe trong thực tiễn hoạt động ngôn ngữ".
1.2. Một số khái niệm cơ bản về từ điển và từ điển học
1.2.1. Chức năng và đặc điểm cơ bản của từ điển
Các chức năng cơ bản của từ điển là cung cấp thông tin, phục vụ giao tiếp, hướng dẫn - giáo dục ngôn ngữ, góp phần chuẩn hoá ngôn ngữ và phục vụ nghiên cứu.
Để thực hiện các chức năng này, từ điển có những đặc điểm riêng, khác biệt với các loại sách khác. Vừa là một sản phẩm khoa học, lại vừa là một loại sách công cụ, từ điển phải đồng thời đảm bảo hai tính chất cơ bản là tính khoa học và tính tiện dùng, ngoài ra còn có tính tư tưởng.
1.2.2. Phân loại từ điển
Có nhiều cách phân loại từ điển khác nhau, tiêu biểu là sự phân loại của L. V. Serba (1940), của L. Zgusta (1971). Trong nghiên cứu từ điển học, sự phân biệt thường được nhắc đến nhất là sự phân biệt giữa từ điển bách khoa "cung cấp những kiến thức về các đối tượng do từ ngữ biểu thị" trong mối quan hệ với từ điển ngôn ngữ "cung cấp kiến thức về chính các đơn vị từ ngữ"; từ điển song ngữ phân biệt với từ điển đơn ngữ. Chiếm một vị trí quan trọng trong từ điển đơn ngữ là từ điển giải thích (giải thích ý nghĩa các đơn vị được miêu tả), khác với các từ điển chuyên biệt (cung cấp những thông tin khác như chính tả, đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, v.v.).
1.2.3. Cấu trúc của từ điển giải thích
Cấu trúc chung của mọi loại từ điển, khác hẳn với các sách khác, là từ điển có cấu trúc đôi, có tính hệ thống chặt chẽ. Các mục từ trong một quyển từ điển được sắp xếp theo một trật tự nhất định, mỗi mục từ là một đơn vị độc lập, có nội dung riêng biệt.
Cấu trúc của từ điển giải thích vào loại đa dạng và phức tạp nhất trong các loại từ điển. Lí luận từ điển học hiện đại đã có một bước ngoặt đáng kể với các khái niệm cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô mà J. Rey Debove đưa ra. Cấu trúc vĩ mô hay còn gọi là cấu trúc bảng từ: Các mục từ trong từ điển giải thích phải được thu thập theo những tiêu chí nhất định, tạo thành một bảng từ có cấu trúc chặt chẽ, có tính hệ thống, đảm bảo sự nhất quán. Cấu trúc vi mô hay còn gọi là cấu trúc mục từ: J. Rey Debove coi mỗi mục từ trong từ điển có cấu trúc như một câu, trong đó đơn vị mục từ là chủ ngữ, các thông tin là vị ngữ; L. Zgusta gọi hai thành phần chính của cấu trúc vi mô là phần đề (mục từ) và phần chính (các thông tin). Hai quan niệm này cùng nêu lên một đặc tính cơ bản của cấu trúc mục từ, đó là tính "đề - thuyết".
Trong từ điển giải thích, nội dung cơ bản là thông tin ngữ nghĩa, mà thành phần hạt nhân là phần định nghĩa.
Tác giả[sửa]
- TS. Hoàng Thị Tuyền Linh
Trung Tâm Từ Điển Học - Vietlex