Vũ trụ trong một nguyên tử/Chương 2
Tôi
sinh
trong
một
gia
đình
của
những
nhà
nông
mộc
mạc,
là
những
người
dùng
ngựa
để
cày
bừa
cho
cánh
đồng
của
họ,
và
khi
lúa
mạch
chín
mùa,
thì
dùng
sức
ngựa
dẫm
để
giả
lúa.
Có
lẽ
các
thứ
khả
dĩ
được
mô
tả
như
là
có
tính
chất
kỹ
thuật
trong
thế
giới
thơ
ấu
của
tôi
là
những
con
dao
găm
mà
những
người
lính
du
mục
địa
phương
kiếm
được
từ
Anh-Ấn,
Nga,
hay
Trung
Quốc.
Vào
lúc
6
tuổi
tôi
đã
lên
ngôi
Dalai
Lama
thư
14
tại
thủ
đô
Tây
Tạng,
Lhasa,
và
dấn
thân
vào
việc
tu
học
trong
tất
cả
các
phương
diện
của
Phật
giáo.
Tôi
có
các
gia
sư
hàng
ngày
dạy
tôi
đọc,
viết,
triết
học
Phật
giáo
cơ
bản,
và
học
thuộc
lòng
các
kinh
văn
và
nghi
lễ.
Tôi
cũng
có
nhiều
tsenshap,
nghiã
là
những
"người
trợ
giúp
về
triết
học"
Phận
sự
chính
của
họ
là
đem
đến
cho
tôi
cuộc
thảo
luận
về
các
đề
tài
của
tư
tưởng
Phật
giáo.
Thêm
vào
đó,
tôi
có
tham
gia
các
cuộc
cầu
nguyện
và
thiền
định
trong
nhiều
giờ.
Tôi
tham
dự
các
thời
kỳ
nhập
thất
với
các
gia
sư
và
và
ngồi
theo
quy
định
trong
hai
giờ
một
lần
và
4
lần
trong
ngày
trong
một
buổi
thiền
định.
Đây
là
việc
rèn
luyện
điển
hình
cho
một
vị
lạt-ma
cao
cấp
trong
truyền
thống
Tây
Tạng.
Nhưng
tôi
đã
không
được
giáo
dục
về
toán,
địa
lý,
hóa
học,
sinh
học,
hay
vật
lý.
Thậm
chí
tôi
cũng
không
biết
là
chúng
có
tồn
tại
hay
không
nữa.
Điện Potala là nhà ở mùa đông chính thức của tôi. Đó là một công trình xây dựng đồ sộ, chiếm hết một bên của một trái núi, và nó phải có đến hàng nghìn phòng – Tôi chưa bao giờ tự đếm chúng. Trong những lúc rảnh khi còn là một cậu bé, tôi tự giải trí bằng cách thăm dò vài nơi trong các căn buồng của nó. Giống như là một cuộc săn lùng châu báu bất tận. Ở đó có tất cả mọi thứ đồ đạc, chủ yếu thuộc về các Dalai Lama tiền nhiệm và đặc biệt là của vị ngay trước tôi, được dành riêng ra ở đó. Trong số các nội dung nổi bật của cung điện là những tháp xá lợi chứa những phần thân thể còn lại của các Dalai Lama trước đây, cho đến tận đời Dalai Lama thứ 5, người sống trong thế kỉ thứ 17 và đã mở rộng điện Potala như hình dáng hiện thời. Giữa các hiện vật bày biện, tôi tìm thấy một vài đồ đạc cơ khí thuộc về đức Dalai Lama thứ 13. Đáng chú ý nhất là một kính thiên văn xếp được được làm từ đồng thau và có thể gắn lên một chạc ba chân, và một đồng hồ cơ học lên dây cót với một quả cầu quay được trên một giá đỡ cho biết thời gian trong những múi giờ khác nhau. Ở đó cũng có chỗ bí mật lớn chứa những cuốn sách có minh họa bằng Anh ngữ về Thế Chiến Thứ Nhất.
Một số trong chúng là quà tặng cho đức Dalai Lama thứ 13 từ người bạn Sir Charles Bell[1]. Bell là nhà chính trị Anh nói được Tạng ngữ tại Sikkim[2]. Ông ta là người cho đức Dalai Lama thứ 13 lưu trú trong khoảng thời gian ngắn tại Anh-Ấn, sau khi trốn đi trong năm 1910 bởi nguy cơ xâm chiếm của quân địch thuộc chính quyền Đế chế cuối cùng của Trung Hoa [nhà Mãn Thanh]. Điều đáng hiếu kỳ là việc lưu vong tại Tây Tạng và tìm hiểu văn hóa của khoa học là những điểm được truyền lại cho tôi từ người tiền nhiệm [tức là đức Dalai Lama thứ 13]. Với đức Dalai Lama 13, sau này tôi nhận ra việc ở lại Anh-Ấn đã là một kinh nghiệm bất ngờ dẫn tới nhận thức về nhu cầu của các cải cách lớn về xã hội và chính trị tại Tây Tạng. Trong chuyến trở lại Lhasa, Ngài đã mở đường điện tín, cài đặt dịch vụ bưu chính, xây dựng một nhà máy phát điện nhỏ để đốt các ngọn đèn đầu tiên tại Tây Tạng, và thiết lập nha ngân khố để in tiền kim loại và giấy bạc. Ngài cũng đã đạt tới nhận thức về tầm quan trọng của nền giáo dục thế tục hiện đại và đã tuyển chọn một nhóm trẻ Tây Tạng gửi đi học tại Ruhby School tại Anh. Đức Dalai Lama 13 để lại một chúc thư vào phút cuối tiên đoán nhiều thứ về thảm kịch chính trị sẽ xãy ra, và chính quyền [Tây Tạng] tiếp nối đã thất bại để hiểu hết hay lưu tâm tới chúc thư này.[3]
Trong những món đồ cơ khí lý thú thu được bởi đức Dalai Lama 13 là một chiếc đồng hồ bỏ túi, hai máy chiếu phim, và ba chiếc xe hơi – Hai trong chúng là "Baby Austin" đời 1927 và "American Dodge" đời 1931[4]. Lúc đó, không có đường để có thể chạy xe trong toàn vùng Hymalaya hay chính ngay tại Tây Tạng, những chiếc xe này đã bị tháo rời ra tại Ấn và được mang xuyên qua các vùng núi bởi các công nhân khuân vác, người lao động, và bởi lừa trước khi được lắp ráp lại cho đức Dalai Lama. Trong một thời gian dài, đây là 3 chiếc xe hơi duy nhất của cả Tây Tạng – và chúng khá là vô dụng, vì không có đường xá bên ngoài Lhasa để cho người ta có thể lái chúng. Những món đồ khác nhau này để lộ các dấu hiệu của một nền văn hóa kỹ nghệ, đã trui rèn nên một đam mê to tát của một cậu nhỏ với bản năng hiếu kì và một chút năng động. Một lần tôi còn nhớ rất rõ, tôi đã chơi nghịch với các thứ này thay vì học giáo lý hay nhớ bài. Ngày nay, tôi có thể vẫn thấy những thứ này cũng không hơn các món đồ chơi, nhưng chúng khêu gợi đến một thế giới tri thức và kinh nghiệm mà tôi đã không truy cập tới được và sự có mặt của chúng là một hấp dẫn vô cùng. Một cách để hiểu, thì sách này viết về lộ trình để phát hiện thế giới đó và những thứ tuyệt diệu mà nó cống hiến.
Tôi không thấy khó khăn về cái kính thiên văn. Không hiểu sao việc dùng nó để làm gì có vẻ hiển nhiên với tôi; và ngay sau đó dùng nó để quan sát cuộc sống tất bật của phố xá Lhasa, đặc biệt là ở các khu chợ. Tôi thèm muốn cái cảnh của sự tự do với những đứa trẻ đồng trang lứa chạy tung tăng ngoài đường trong khi mà tôi phải học hành. Sau đó, tôi dùng kính viễn vọng để quan sát bầu trời đêm ở Potala – nơi có được một vị trí cao của Tây Tạng, nơi có tầm ngắm tuyệt hảo nhất đến các vì sao. Tôi hỏi những người giúp việc các tên của các tinh tú và những chòm sao. Tôi biết cái đồng hồ bỏ túi để làm gì nhưng muốn biết nhiều hơn vì bị hấp dẫn bởi cách nó vận hành. Tôi gặp khó khăn về điều này ít lâu cho tới khi không nhịn tò mò và tôi đã mở vỏ để nhìn vào bên trong. Chẳng bao lâu sau, tôi tháo tung toàn bộ và điều thách thức là lắp đặt chúng lại với nhau sao cho nó thực sự vận hành. Thế là bắt đầu một lòng ham thích lâu dài về việc tháo rời và lắp ráp trở lại các đồ vật cơ khí. Tôi thông thạo tiến trình này đến nổi trở thành một người sửa chữa quan trọng cho nhiều người chủ của các đồng hồ đeo tay và treo tường mà tôi quen biết ở Lhasa. Sau này tại Ấn Độ, tôi không có nhiều may mắn với chiếc đồng hồ cúc-cu của mình, khi mà cúc-cu bị phá hỏng bởi con mèo của tôi và không thể phục hồi. Khi đồng hồ pin tự động trở nên thông dụng, sự ham thích của tôi giảm đi nhiều – nếu bạn mở một cái đồng hồ như vậy, bạn sẽ hầu như khó tìm thấy bộ phận cơ khí nào.
Việc tìm tòi cách sử dụng hai máy chiếu phim quay tay của đức Dalai Lama 13 khó khăn hơn nhiều. Một trong những người giúp việc của tôi là một vị sư đức độ, đã tìm ra cách làm cho một máy trong chúng hoạt động. Tôi hỏi ông ấy chuẩn bị nó để tôi có thể xem một vài phim mà chúng tôi có. Sau này chúng tôi có dùng được một máy chiếu phim 16 ly chạy điện; nhưng hay bị hỏng, một lần vì chiếc máy phát không cung cấp điện đúng. Trong khoảng thời gian này, tôi đoán là vào năm 1945, Heinrich Harrer và Peter Aufschnaiter[5] những người Áo đã vượt thoát qua dãy Hymalaya đến Lhasa từ một nhà tù của Anh thuộc về một trại tù chiến tranh [trong Thế Chiến Thứ Hai] ở miền Bắc Ấn Độ. Harrer trở thành một người bạn của tôi, và tôi thỉnh thoảng chuyển ông ấy sang giúp sửa máy chiếu. Chúng tôi đã không kiếm được nhiều phim, nhưng có nhiều cuốn tin tức về các sự kiện lớn của Thế Chiến thứ II được đem xuyên qua Ấn-độ cung cấp các đề tài về quan điểm của Đồng Minh. Cũng có những cuốn về VE Day [Viết tắt của chữ "Victory in Europe Day" tức là ngày Đức đầu hàng Đồng Minh: 7 và 8 tháng 5 năm 1945], về lễ đăng quang của vua George đệ lục của nước Anh và Phim của soạn giả Laurence Oliver về tác phẩm của Shakespeare "Henry V", cũng như là một số phim không lời của Charlie Chaplin.
Sự đam mê của tôi về khoa học bắt đầu từ công nghệ, và dĩ nhiên tôi đã không phân biệt được khác nhau giữa hai phạm trù này. Khi gặp Harrer, người biết nhiều về cơ khí hơn bất kì ai mà tôi biết ở Lhasa, tôi cho là sự tinh thông trong khoa học của ông sẽ sâu sắc như là sự thành thạo của ông ta trên một số đồ vật cơ khí mà chúng tôi có được ở Potala. Thật là tức cười là những năm sau này tôi phát hiện ông ấy không có nền tảng chuyên môn khoa học – Thời đó, tôi nghĩ tất cả đàn ông da trắng đều có hiểu biết sâu sắc về khoa học.
Cảm hứng bởi sự thành công trong việc tháo mở các đồng hồ và sửa máy chiếu phim, tôi có nhiều hoài bão hơn. Đề tài tiếp sau của tôi là tìm hiểu về cơ khí của xe hơi. Người chịu trách nhiệm lái và trông coi những chiếc xe là Lhakpa Tsering; Ông ta là người bộc trực nổi tiếng là nóng nảy. Nếu lỡ bị đụng đầu trong khi làm việc dưới gầm xe thì ông ta sẽ trở nên nóng giận và đập và đụng đầu thêm. Tôi đánh bạn với ông để ông ta cho tôi được kiểm nghiệm máy móc trong khi ông ấy sửa chữa nó và dần dần chỉ tôi cách lái xe.
Một ngày nọ, tôi lén lấy một chiếc Austin ra và lái một mình nhưng lại gây ra một tai nạn nhỏ và làm bể đèn pha bên trái. Tôi đã hốt hoảng về điều mà Babu Tashi, một người chịu trách nhiệm khác về những chiếc xe, có thể nói ra ngoài, nên đã xoay sở kiếm được một đèn pha thay thế, nhưng nó lại là loại thủy tinh không màu, trong khi cái nguyên thủy có màu đục. Sau một ít suy nghĩ, tôi tìm ra giải pháp. Tôi tái tạo màu dục bằng cách phủ lên nó lớp đường chảy. Tôi không bao giờ nghĩ tới nếu Babu Tashi sẽ phát hiện ra. Nếu có, thì ít nhất ông ấy sẽ không bao giờ trừng phạt tôi.
Có một lãnh vực quan trọng của khoa học hiện đại, mà Harrer giúp ích nhiều nhất cho tôi; đó là địa lý. Trong thư viện cá nhân của tôi có một bộ sưu tập các sách về Thế Chiến thứ II, trong đó cung cấp nhiều giải thích chi tiết về sự tham chiến của nhiều nước lớn kể cả Nhật. Những thám hiểm của tôi vào máy chiếu phim, sửa chữa các đồng hồ, và thử lái xe cho tôi một gợi ý sơ lược về thế giới khoa học và công nghệ có thể nói về những điều gì. Ở một mức nghiêm chỉnh hơn, sau khi đã được trao quyền lãnh đạo Tây Tạng ở tuổi 16, việc tôi dấn thân vào các thăm viếng Trung Quốc vào năm 1954 và Ấn Độ vào năm 1956 đã để lại cho tôi một ấn tượng mạnh. Quân đội Trung Quốc đã chiếm đóng nước tôi, và tôi đã tham dự trong một cuộc đàm phán lâu dài và đặc biệt nhằm tìm kiếm cho một sự hoà giải với chính quyền Trung Quốc.
Chuyến công du nước ngoài đầu tiên, khi tuổi gần đôi mươi, đưa tôi đến Trung Quốc, nơi mà tôi gặp chủ tịch Mao, Chu Ân Lai, và các vị lãnh đạo khác của chính quyền. Chuyến viếng thăm quốc gia bao gồm một chuỗi các cuộc tham quan những cánh đồng hợp tác và những công trình công cộng như các đập thủy điện. Đây không chỉ là lần đầu tiên tôi ở trong một thành phố hiện đại với đường xá và xe hơi mà còn là lần đầu tiên tôi gặp gỡ các khoa học gia.
Trong năm 1956, tôi đến Ấn Độ tham dự lễ kỷ niệm 2500 năm đức Phật nhập diệt mà sự kiện chính được diễn ra tại Delhi. Sau đó, thủ tướng Ấn, ngài Jawaharlal Nehru [6] trở thành như là một cố vấn và một ngưòi bạn, cũng như là người tiếp nhận tôi tỵ nạn. Nehru là người có đầu óc khoa học; Ngài nhìn thấy tương lai Ấn Độ trong khuôn khổ phát triển về kỹ nghệ và công nghiệp và có tầm nhìn sâu sắc về sự tiến bộ. Sau buổi lễ chính thức kỷ niệm đức Phật qua đời, tôi được tường lãm nhiều nơi của Ấn Độ – không những các thánh địa hành hương như Bodhgaya[7], nơi đức Phật thành đạo, mà cả các thành phố lớn, các nhà máy liên hợp kỹ nghệ, và các đại học.
Sau đó lần đầu tiên tôi gặp gỡ với các nhà truyền giáo đang tìm kiếm một sự tích hợp giữa khoa học và tâm linh như là các thành viên của Theosophical Society [tạm dịch là "Thần Trí Hội"] tại Madras [Thủ phủ bang Tamil Nadu Ấn Độ]. Thần Trí học đã là một phong trào tâm linh quan trọng trong thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 mưu cầu phát triển một sự tổng hợp của tri kiến nhân loại, Đông và Tây, tôn giáo và khoa học. Những nhà sáng lập của phong trào bao gồm Madame Blavatsky và Annie Besant[8] là người Tây Phương nhưng có nhiều thời gian sống tại Ấn.
Ngay cả trước các chuyến đi chính thức như thế, tôi đã nhận biết được rằng công nghệ thật ra là thành quả hay là biểu thị một cách thức đặc trưng của hiểu biết về thế giới. Khoa học là cơ sở của các biểu thị đó. Dù sao, khoa học là dạng đặc biệt của sự truy cứu và là khối kiến thức bắt nguồn từ nó mà hình thành được hiểu biết về thế giới. Vậy nên dù sự đam mê ban đầu của tôi là với các hình thức công nghệ, – tức là dạng khoa học của sự truy cứu hơn là thứ đồ chơi cơ khi hay kỹ thuật đặc thù – đã làm tôi suy gẩm sâu nhất.
Như là kết quả của các mạn đàm với nghiều người, đặc biệt là các khoa học gia chuyên môn về khoa học, tôi nhận thấy nhiều sự tương tự chắc chắn trong tinh thần của việc truy cứu giữa khoa học và tư tưởng Phật giáo – Những sự tương tự mà tôi vẫn còn thấy là nổi bật. Các phương pháp khoa học theo tôi hiểu, xuất phát từ sự quan sát những hiện tượng chắc chắn trong thế giới vật chất dẫn tới một tổng quát hoá về lý thuyết; mà lý thuyết đó tiên đoán được các sự kiện và kết quả sẽ hình thành, nếu các hiện tượng đó được cứu xét trong một cách thức đặc thù; và sau đó kiểm nghiệm lại dự đoán bằng các thí nghiệm. Kết quả được chấp nhận như là một bộ phận của khối kiến thức khoa học rộng lớn hơn nếu thí nghiệm kết xuất ra là đúng và có thể lập lại được. Nhưng nếu thí nghiệm mâu thuẫn với lý thuyết, thì lý thuyết cần phải được điều hợp lại – vì quan sát thực nghiệm của hiện tượng là ưu tiên. Một cách hiệu quả, khoa học chuyển từ kinh nghiệm thực nghiệm qua một tiến trình tư tưởng nhận thức bao gồm sự áp dụng và hoàn thiện trong kinh nghiệm thực nghiệm xa hơn để kiểm tra lại hiểu biết đem đến bởi lập luận. Tôi từ lâu đã giữ sự đam mê về tương quan song song giữa hình thức khảo sát thực nghiệm và những điều mà tôi học hỏi được qua đào tạo trong triết học Phật giáo và tu hành.
Mặc dù Phật giáo đến từ một tôn giáo với các đặc tính của kinh điển và lễ nghi, nói một cách chính xác, trong Phật giáo, thẩm quyền kinh điển không thể có nhiều giá trị hơn một hiểu biết dựa trên lập luận và kinh nghiệm. Thực ra, chính đức Phật, trong một phát biểu nổi tiếng, đã giảm nhẹ thẩm quyền kinh điển của chính những phát ngôn của mình khi Ngài tuyên thuyết với các đệ tử đừng chấp nhận giá trị các lời dạy của Ngài vì chỉ đơn giản dựa trên sự tôn kính đạo sư. Cũng như người thợ luyện vàng dày dạn sẽ kiểm nghiệm sự tinh khiết số vàng của mình thông qua tiến trình thật kỹ càng của sự kiểm tra[9]; đức Phật khuyên nhủ rằng người ta nên kiểm nghiệm sự thật của điều mà Ngài đã dạy thông qua sự kiểm tra lập luận và thử nghiệm cá nhân. Do đó, khi đi đến việc đánh giá sự chân thật của một luận điểm, chiếu theo thẩm quyền lớn nhất là từ kinh nghiệm, tiếp theo là với lập luận, và sau cùng mới là kinh điển. Các đại sư thuộc đại học Nalanda của Phật giáo Ấn Độ, mà từ đó bắt nguồn cho Phật giáo Tây Tạng, đã tiếp tục áp dụng tinh thần của lời khuyên dạy của đức Phật trong việc kiểm tra chặt chẽ và chính xác đối với chính lời dạy của đức Phật.
Có một ý nghĩa mà các phương pháp khoa học và Phật giáo khác nhau: khảo sát khoa học khởi đầu từ thí nghiệm, dùng các dụng cụ để phân tích các hiện tượng bên ngoài, trong khi việc tu hành khởi đầu bằng việc phát triển chú tâm tinh tế, mà sau đó được sử dụng dưới sự kiểm soát tính tự cảnh tỉnh [tỉnh thức] của kinh nghiệm nội tại. Nhưng cả hai cùng chia sẻ chung một cơ bản thực nghiệm mạnh mẽ: nếu khoa học chỉ ra được điều nào đó tồn tại hay không tồn tại (điều này không đồng nhất với việc không tìm thấy điều đó), thì chúng tôi phải thừa nhận điều đó như là một sự thật. Nếu một lý thuyết đã được kiểm nghiệm và tìm thấy là chân thật, thì chúng tôi phải chấp nhận nó. Cũng vậy, Phật giáo phải chấp nhận những sự thật – bất kể là được tìm thấy bởi khoa học hay là bởi tuệ giác thiền định. Nếu khi khảo sát sự việc nào đó, ta tìm thấy lý do và chứng minh được nó thì ta phải thừa nhận điều đó như là thực tại – ngay cả nếu nó mâu thuẫn với một giải thích kinh điển theo nghĩa đen đã lưu giữ ảnh hưởng trong nhiều thế kỉ hay mâu thuẫn với ý kiến quan điểm đã được lưu giữ rất sâu. Vậy nên, một thái độ căn bản chia sẻ chung bởi Phật giáo và khoa học là nguyện ước giữ gìn sự truy lùng thực tại bởi những giá trị thực nghiệm và mong muốn loại bỏ những quan điểm đã lưu giữ lâu đời hay đã được thừa nhận nếu sự tìm tòi của chúng ta thấy ra rằng sự thật thì khác biệt [với thực tại].
Tương phản với tôn giáo, một đặc tính của khoa học thiếu vắng một phương sách tới thẩm quyền kinh điển như là một nguồn các luận điểm chân lý hiệu lực. Tất cả các sự thật trong khoa học phải được biểu thị hoặc thông qua thí nghiệm hoặc thông qua chứng minh toán học. Ý kiến cho rằng điều nào đó phải y như thế, chỉ bởi vì Newton[10] hay Einstein[11] đã nói như vậy thì đơn giản không phải là khoa học. Vậy nên, việc truy cứu phải bắt đầu từ một động thái cởi mở với sự tôn trọng câu hỏi đến nội dung đề tài và tôn trọng điều mà câu trả lời sẽ có thể có, tức là một trạng thái tâm thức mà tôi cho là một chủ trương nghi ngờ lành mạnh. Loại cởi mở này có thể làm cho các cá nhân dễ tiếp thu những thấu hiểu mới và những phát hiện mới; và khi nó được kết hợp với sự truy tầm có tính bản năng của con người cho sự hiểu biết; thái độ này có thể dẫn đến một sự mở rộng sâu xa của chân trời [tri thức] của chúng ta. Dĩ nhiên, điều này không có nghiã là tất cả các nhà thực nghiệm khoa học phải sống với lý tưởng này. Một số người quả có thể vướng mắc trong các mô thức trước đây.
Nói về các truyền thống khảo sát Phật giáo, thì chúng tôi, những người Tây Tạng mang món nợ lớn từ cổ Ấn Độ, nơi ra đời của tư tưởng triết học Phật giáo. Người Tây Tạng luôn luôn nói Ấn Độ là "Vùng đất của những thánh nhân". Quốc gia này là nơi sinh của đức Phật, và hàng loạt các đại sư Ấn Độ mà các bản luận của họ đã làm khuôn mẫu nền tảng cho tư tưởng triết học và truyền thống tâm linh cho người TâyTạng – như là Thánh giả Long Thụ triết gia thế kỉ thứ 2, ngài Vô Trước ngôi sao sáng thế kỉ thứ 4 và người anh của ông là ngài Thế Thân, ngài Tịch Thiên đại sư giới luật vĩ đại, và ngài Pháp Xứng luận sư thế kỉ 17[12].
Kể từ sau chuyến bay của tôi từ Tây Tạng trong tháng 3 năm 1959, một số lớn người dân Tây Tạng tị nạn và tôi có được duyên may vô cùng để tìm được một nơi trú ngụ thứ hai tại Ấn. Tổng thống Ấn Độ trong những năm đầu tôi tị nạn là Tiến Sĩ Rajendra Prasad[13], một người tâm linh sâu sắc, một học giả luật pháp khả kính. Phó tổng thống, người sau này đã trở thành tổng thống, là Tiến Sĩ Sarvepalli Radhakrishnan[14], ông được biết đến một cách rộng rãi là một học giả triết học chuyên nghệp và tư nhân. Tôi nhớ rõ một lần khi đang giữa một buổi thảo luận về vấn đề triết học, ngài Radhakrishnan trích dẫn một cách không ngập ngừng một bài kệ từ tác phẩm cổ điển "Căn Bản Trung Quán Luận"[15] của thánh giả Long Thụ. Đó là điều đáng ghi nhớ nhất từ khi độc lập vào năm 1947, Ấn Độ đã lưu giữ truyền thống kinh điển vào việc trao quyền lãnh đạo quốc gia cho những nhà tư tưởng đáng lưu ý và những nhà khoa học.
Sau một thập kỷ khó khăn của việc điều tiết, việc giúp đỡ để định cư cộng đồng vào khoảng 80.000 dân tị nạn Tây Tạng trong nhiều bộ phận của xứ Ấn, việc xếp đặt các trường học cho giới trẻ, và việc nổ lực để giữ gìn các truyền thống của một nền văn hoá bị đe dọa [hủy hoại], tôi bắt đầu các cuộc chu du quốc tế ít lâu trước cuối thập niên 1960. Thêm vào đó, để chia sẻ hiểu biết của tôi về các giá trị nhân bản, tán thành hài hoà và hiểu biết giữa các tôn giáo, và vận động cho nhân quyền và tự do của người Tây Tạng, tôi đã có nhiều cơ hội trong những lúc chu du để gặp gỡ các nhà khoa học riêng biệt để thảo luận về mối quan tâm, mở rộng kiến thức và đào sâu hơn bao giờ hết sự hiểu biết của tôi về khoa học và các phương pháp của nó. Ngay cả vào thời gian còn sớm trong thập niên 1960, Tôi đã bàn thảo về nhiều khiá cạnh của giao diện gìữa tôn giáo và khoa học với một số khách thăm viếng có năng lực tại chỗ lưu trú của tôi ở Dharamsala ở miền bắc Ấn Độ. Hai cuộc gặp gỡ đáng nhớ nhất trong thời kì này là với tu sĩ nhà dòng. Thomas Merton[16], là người quan tâm sâu sắc đến Phật giáo và dẫn nhập cho tôi về đạo Cơ Đốc, và học giả về tôn giáo Huston Smith [17]
Chú thích[sửa]
- ↑ Charles Alfred Bell: Chính trị gia và là nhà Tây Tạng học sinh tại Calcutta (nay thuộc Ấn Độ). Ông là tác giả của cuốn Portrait of a Dalai Lama, ấn hành 1946. “Charles Alfred Bell”. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.<http://en.wikipedia.org/wiki/Charles_Alfred_Bell>
- ↑ Sikkim (còn gọi là Sikhim) là một bang thuộc Tây Bắc Ấn-độ trên dãy Himalaya. Nơi đây dân cư thưa thớt, Bắc và Đông giáp Tây Tạng, Tây giáp Nepal và Đông Nam giáp Bhutan. “Sikkim”. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.<http://en.wikipedia.org/wiki/Sikkim>
-
↑
Xem
thêm
về
cuộc
đời
của
đức
Dalai
Lama
thứ
13
(1876
–
1933)
http://en.wikipedia.org/wiki/Thubten_Gyatso,_13th_Dalai_Lama.
Các tài liệu về việc tiên đoán vận mệnh nước Tây Tạng có thể thể tìm ở rất nhiều nơi. Xin xem thêm:
1. “A History of Modern Tibet, 1913-1951: The Demise of the Lamaist State”. Google Books. Resultby Melvyn C. Goldstein, Gelek Rimpoche - 1991 - History - 936 pages -- Trang 205 (dùng google tìm từ khoá: "A History of Modern Tibet" will certainly be forced either from within or without)
2. http://www.reversespins.com/buddhistprophecy.html -
↑
Đây
là
tên
kiểu
xe
của
nhà
thiết
kế
xe
người
Anh
là
Herbert
Austin
(1866-1941).
“Herbert
Austin,
1st
Baron
Austin”.
Wikipedia.
Truy
cập
18/02/2009.<http://en.wikipedia.org/wiki/Herbert_Austin,_1st_Baron_Austin>
Kiểu xe Dodge xuất phát từ hãng Dodge Brothers. Sau đó được Walter Chrysler mua lại (1928) Tuy nhiên hiệu Dodge vẩn còn tồn tại cho đến ngày nay. “Walter_Chrysler”. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009<http://en.wikipedia.org/wiki/Walter_Chrysler> -
↑
Heinrich
Harrer
(1912
–
2006)
nhà
leo
núi,
thể
thao,
địa
lý
người
Áo.
Ông
được
biết
nhiều
qua
tác
phẩm
"Seven
Years
in
Tibet"
(Bảy
năm
tại
Tây
Tạng)
--được
dịch
sang
53
thứ
tiếng
và
chuyển
thành
phim
cùng
tên.
“Heinrich
Harrer”.
Wikipedia.
Truy
cập
18/02/2009<http://en.wikipedia.org/wiki/Heinrich_Harrer>
Peter Aufschnaiter (1899 - 1973) là một nhà leo núi, khoa học nông nghiệp, địa lý, và bản đồ người Áo. “Peter Aufschnaiter”. Wikipedia. Truy cập 28/02/2009. <http://en.wikipedia.org/wiki/Peter_Aufschnaiter> - ↑ Jawaharlal Nehru (1889 – 1964) là nhà lãnh đạo chính trị quan trọng của đảng Quốc Đại, ông là biểu tượng đặc trưng cho phong trào đấu tranh giành độc lập Ấn Độ khỏi người Anh, là thủ tướng đầu tiên và phục vụ cương vị này lâu nhất của Cộng Hoà Ấn Độ. Ông cũng là hình ảnh chủ chốt trong chính trường quốc tế thời hậu chiến, được xem là lãnh dạo của Phong trào Phi Liên Kết. “Jawaharlal Nehru”. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009. <http://en.wikipedia.org/wiki/Jawaharlal_Nehru>
- ↑ Bodhgaya còn có tên phiên âm là Bồ-đề Đạo tràng, nằm ở vùng Đông Bắc Ấn Độ (24°41′43″ Vĩ tuyến Bắc, 84°59′38″ Kinh Tuyến Đông). Đây là thánh tích hành hương quan trọng nhất của các Phật tử được xếp vào danh mục Di Sản thế Giới của UNESCO.
-
↑
Có
nhiều
bài
viết
mô
tả
và
gìới
thiệu
về
thánh
tích
này.
“Phật
Tích
và
Danh
Thắng”.
Đạo
Phật
Ngày
Nay.
Truy
cập
18/02/2009.
<http://www.buddhismtoday.com/index/phattich.htm>
Tên thật là Helena Blavatsky (Елена Блаватская) (1831 - 1891), là người gốc Nga sáng lập Thần Trí Hội. “Madame Blavatsky”. Wikipedia. Truy cập 13/01/2010<http://en.wikipedia.org/wiki/Madame_Blavatsky>
Annie Wood Besant (1847 – 1933) Người Anh là một thành viên kỳ cựu của Thần Trí Hội, một người đấu tranh cho nữ quyền, mọt tác giả, nhà hùng biện, và người ủng hộ cho Ấn-độ tự trị. “Annie Besant”. Wikipedia. Truy cập 13/01/2010<http://en.wikipedia.org/wiki/Annie_Besant> - ↑ Lời dạy này được trích từ bản sớ giải Vimalaprabhā về Kālachakra, mặc dù nó cũng thấy xuất hiện trong Kinh tạng Pali. Phần tiếng Sanskrit được trích dẫn trong Tattvasaṃgraha, do D. Shastri biên tập (Vārāṇasī: Bauddhabharari, 1968), k. 3587.
- ↑ Issac Newton (1643-1727) nhà vật lý, toán học, thiên văn vĩ đại người Anh. Ông là người đặt nền móng cho cơ học cổ điển với việc mô tả luật vạn vận hấp dẫn và các luật của chuyển động trong cơ học cổ điển và nó trở thành bộ môn khoa học chiếm ưu thế trong suốt 3 thế kỉ. Đồng thời với Gottfried Leibniz, ông phát triển giải tích toán học cổ điển tức là các phép vi và tích phân. Các đóng góp của ông được xem là khởi đầu cho nền vật lý cổ điển. “Isaac Newton”. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009. <http://en.wikipedia.org/wiki/Isaac_Newton>
- ↑ Albert Einstein (1879-1955 -- Nobel Vật lý 1921) người gốc Đức, được xem là nhà vật lý xuất sắc nhất trong mọi thời đại. Ông có nhiều đóng góp lớn trong các lĩnh vục khác nhau của vật lý và toán học như vũ trụ học, cơ học, lượng tử, sác xuất thông kê ... Ông được biết đến nhiều là do phát minh ra lý thuyết tương đối Hẹp (1905) và thuyết tương đối rộng (1916), cũng như là người nêu ra công thức chuyển hoá giữa khối lượng và năng lượng E=mc2. Tuy vậy, giải Nobel dành cho ông lại không phải do các công trình đó mà là là vì công mô tả luật về hiệu hứng ánh ánh. “Albert Einstein”. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009. <http://en.wikipedia.org/wiki/Albert_Einstein>
-
↑
Theo
nhiều
tài
liệu
thì
đức
Dalai
Lama
có
nhắc
đến
các
đại
sư
tài
ba
Ấn
Độ
khác
(17
vị)
đều
xuất
thân
từ
truyền
thừa
Nalanda
và
đức
Dalai
Lama
cũng
xác
nhận
mình
thuộc
dòng
truyền
thừa
này.
Ở
đây,
Ngài
chỉ
nêu
gọn
vài
tên
tuổi
các
đại
sư
trong
dòng
truyền
thừa.
(Số
đại
sư
khác
chưa
được
kể
tên
là
Āryadeva
(Thánh
Thiên),
Buddhapālita
(Phật
Hộ),
Bhāvaviveka
(Thanh
Biện),
Candrakīrti
(Nguyệt
Xứng),
Śāntideva
(Tịch
thiên)
,
Śāntarakṣita
(Tịch
Hộ),
Kamalaśīla
(Liên
Hoa
giới),
Diṅnāga
(Vực
Long),
Vimuktisena
(Giải
Thoát
Quân).
Haribhadrā
(Sư
Tử
Hiền),
Guṇabhadrā
(Đức
Quang),
và
Śākyaprabha
(Thích-ca
Quang)).
Danh
tính
của
các
đại
sư
đã
được
viết
thành
kệ.
“Illuminating
the
Threefold
Faith:
An
invocation
of
the
Seventeen
Great
Scholarly
Adepts
of
Glorious
Nalanda”.
Dalai
Lama
14.
Lamrim
Tibetan
Buddhist
Center.Truy
cập
18/02/2009.
<http://www.lamrim.co.za/NalandaScholars.shtml>.
Riêng về các đại sư được đề cập:
1.1. Long Thụ (sa. nāgārjuna; bo. klu sgrub ཀླུ་ས ྒྲུབ་), dịch âm là Na-già-át-thụ-na (zh. 那伽閼樹那), thế kỷ 1-2, là một trong những luận sư vĩ đại nhất của lịch sử Phật giáo. Sư là người sáng lập Trung quán tông (sa. mādhyamika), sống trong thế kỉ thứ 1–2. Có rất nhiều tác phẩm mang danh của Sư nhưng có lẽ được nhiều tác giả khác biên soạn. Sư cũng được xem là Tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ. “Long Thụ“. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009. <http://vi.wikipedia.org/wiki/Long_Th%E1%BB%A5>
1.2. Vô Trước (sa. asaṅga, nghĩa là "không bị ô nhiễm, vướng mắc"), cũng được dịch âm là A-tăng-già, khoảng thế kỷ 4, là một Đại luận sư của Phật giáo Ấn Độ, người sáng lập Duy thức tông (sa. vijñānavādin). Sư khước từ quan điểm của Thánh giả Long Thụ (sa. nāgārjuna) về tính Không tuyệt đối và thiết lập giáo pháp của mình dưới ảnh hưởng của Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivādin). Tương truyền Sư được Bồ Tát Di-lặc trực tiếp giáo hoá. Có một số luận sư cho rằng Di-lặc này là một nhân vật lịch sử với tên Maitreyanatha (sa. maitreyanātha). “Vô Trước“. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009. <http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B4_Tr%C6%B0%E1%BB%9Bc>
1.3. Thế Thân (sa. vasubandhu, bo. dbyig gnyen དབྱིག་གཉེན་), ~316-396, cũng được dịch là Thiên Thân, gọi theo Hán âm là Bà-tu-bàn-đầu, Bà-tẩu-bàn-đậu, là một Luận sư xuất sắc của Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivādin) và Duy thức tông (sa. vijñānavādin), được xem là Tổ thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Người ta cho rằng Sư sinh tại Peshāwar (địa danh ngày nay), sống tại Kashmir và mất tại A-du-đà (ayodhyā). Sư vừa là em vừa là đệ tử của ngài Vô Trước (sa. asaṅga), người sáng lập phái Duy thức. Vô Trước là người đã khuyến dụ Thế Thân theo Đại thừa. “Thế Thân“. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009. <http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%BF_Th%C3%A2n>
19.4. Pháp Xứng (sa. dharmakīrti) Một trong những Luận sư quan trọng nhất của triết học đạo Phật, đại điện quan điểm của Duy thức tông (sa. vijñānavādin) và Nhân minh học (sa. hetuvidyā), sống trong thế kỉ thứ 7 (~ 600-650) tại Nam Ấn Độ và là môn đệ của Hộ Pháp(sa. dharmapāla) tại Na-lan-đà. “Pháp Xứng“. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.<http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p_X%E1%BB%A9ng> - ↑ Rajendra Prasad (1884 – 963) tổng thống đầu tiên của nước Ấn từ 1948 đến 1950, là lãnh đạo đảng Quốc Đại. “Rajendra Prasad“. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009. <http://en.wikipedia.org/wiki/Rajendra_Prasad>
- ↑ Sarvepalli Radhakrishnan (1888–1975), là một triết gia Ấn. Ông được xem là người có công đặt cầu nối giữa các tư tưởng triết học Đông-Tây. Là người du nhập lý tưởng Tây phương vào Ấn và ngược lại Trình bày các các triết lý tôn giáo và tiết học Ấn sang Anh ngữ. Ông là phó tổng thống đầu tiên của Ấn (1962-1967). “Sarvepalli Radhakrishnan”. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.<http://en.wikipedia.org/wiki/Sarvepalli_Radhakrishnan>
- ↑ Căn bản trung quán luận tụng (*) (sa. [mūla-] madhyamaka-kārikā), cũng được gọi là Trung quán luận tụng, hoặc Trung quán luận (sa. madhyamaka-śāstra), được ngài Cưu-ma-la-thập dịch Hán văn. Tác phẩm này còn lưu giữ trong Phạn ngữ. Xem nguyên văn Phạn ngữ <http://www.uwest.edu/sanskritcanon/Sastra/Devanagari/sastra27/chapter1.html> và bản dịch Việt của Thích Chân HIền từ bản tiếng Hán của Ngài Cưu Ma La thập <http://www.thuvienhoasen.org/trungluan-chonhien-00.htm >
- ↑ Thomas Merton (1915–1968) Là một trong những tác giả Thiên chúa giáo có nhiều ảnh hưởng nhất của thế kỉ thức 20, ông thuộc dòng Trappist. “Thomas Merton”. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009. <http://en.wikipedia.org/wiki/Thomas_Merton>
- ↑ Huston Cummings Smith (1919 -- ??) là một trong những nhà nghiên cứu về tôn giáo xuất sắc. Tác phẩm của ông mang tên "The World's Religions" (Các Tôn Giáo của Thế Giới) là một tác phẩm bán được hơn hai triệu bản. “Huston Smith”. Wikipedia. Truy cập 18/02/2009.<http://en.wikipedia.org/wiki/Huston_Smith>
Mục lục[sửa]
- Dẫn Nhập
- Chương 1: Quán Chiếu
- Chương 2: Đối Diện với Khoa Học
- Chương 2: Đối Diện với Khoa Học (tiếp theo)
- Chương 3: Tính Không, Thuyết Tương Đối và Vật lý Lượng tử
- Chương 3: Tính Không, Thuyết Tương Đối và Vật lý Lượng tử (tiếp theo)
- Chương 4: Vụ Nổ Lớn và Vũ Trụ Phật Giáo Không có Khởi Nguồn
- Chương 5: Tiến Hóa, Nghiệp, và Thế Giới Hữu Tình
- Chương 6: Câu hỏi về ý thức
- Chương 7: Hướng đến một Khoa học về ý thức
- Chương 8: Phổ của ý thức
- Chương 9: Đạo Đức và Tân Di Truyền Học
- Chương 10: Kết Luận: Khoa Học, Tâm Linh, và Nhân Loại
Bài liên quan
Liên kết đến đây
- Vũ trụ trong một nguyên tử
- Vũ trụ trong một nguyên tử/Dẫn Nhập
- Bản mẫu:Vũ trụ trong một nguyên tử
- Vũ trụ trong một nguyên tử/Chương 1
- Vũ trụ trong một nguyên tử/Chương 2 (tiếp theo)
- Vũ trụ trong một nguyên tử/Chương 3
- Vũ trụ trong một nguyên tử/Chương 3 (tiếp theo)
- Vũ trụ trong một nguyên tử/Chương 4
- Vũ trụ trong một nguyên tử/Chương 5
- Vũ trụ trong một nguyên tử/Chương 6
- Xem thêm liên kết đến trang này.