Châu Nam Cực

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Châu Nam Cực là một lục địa nằm xung quanh cực Nam của Trái Đất. Nó nằm trong vùng Nam Cực của Nam bán cầu, gần như nằm hoàn toàn trong vòng Nam Cực và được bao bọc xung quanh bởi Nam Băng Dương. Với diện tích 14,0 triệu km2 (5,4 triệu sq mi), châu Nam Cực là lục địa lớn thứ năm về diện tích sau châu Á, châu Phi, Bắc Mỹ, và Nam Mỹ. Khoảng 98% bề mặt châu Nam Cực nằm dưới một lớp băng bao phủ có bề dày trung bình ít nhất ,[1] băng trải rộng ra mọi hướng đến điểm cực Bắc của bán đảo Nam Cực.

Châu Nam Cực, xét về mặt trung bình, là lục địa lạnh nhất, khô nhất, nhiều gió nhất, và có độ cao trung bình lớn nhất trong tất cả các lục địa.[2] Châu Nam Cực được xem là một hoang mạc có diện tích lớn nhất thế giới hiện nay, với lượng giáng thủy hàng năm chỉ ở mức 200 mm (8 inch) dọc theo bờ biển và giảm dần khi vào trong nội lục.[3] Nhiệt độ của châu Nam Cực xuống đến −89 °C (−129 °F). Tuy ở đây không có cư dân sinh sống thường xuyên, nhưng vẫn có từ 1.000 đến 5.000 người sinh sống mỗi năm tại các trạm nghiên cứu phân bố rải rác trong lục địa. Chỉ có các vi sinh vật ưa lạnh có thể sống sót ở châu Nam Cực như các loại tảo, vi khuẩn, nấm, kí sinh trùng, và một số loài động vật nhất định như mite, ngành giun tròn, chim cánh cụt, hải cẩu gấu nước. Loại thảm thực vật có thể xuất hiện ở đây là đài nguyên.

Mặc dù các huyền thoại và suy đoán về Terra Australis ("Vùng đất phía Nam") đã có từ thời cổ đại, châu Nam Cực chỉ được phát hiện lần đầu vào năm 1820 bởi hai nhà thám hiểm người Nga Fabian Gottlieb von Bellingshausen Mikhail Lazarev trên chiếc thuyền Vostok Mirny. Tuy nhiên, lục địa này đa phần vẫn bị lãng quên trong giai đoạn còn lại của thế kỷ 19 do môi trường khắc nghiệt, thiếu thốn các nguồn tài nguyên và tính biệt lập.

Hiệp ước Nam Cực được ký năm 1959 với sự tham gia của 12 quốc gia; cho đến nay đã có 49 quốc gia ký kết. Hiệp ước nghiêm cấm các hoạt động quân sự và khai thác khoáng sản, cấm các vụ thử hạt nhân và đổ chất thải hạt nhân, khu vực này dùng để phục vụ cho nghiên cứu, và bảo vệ vùng sinh thái của lục địa. Các thí nghiệm hiện vẫn đang được tiến hành với sự tham gia của hơn 4.000 nhà khoa học từ nhiều quốc gia.

Lịch sử thám hiểm[sửa]

Tập tin:Amundsen-Fram.jpg
Tàu Fram của Amundsen trên biển Nam

Châu Nam Cực không có dân bản địa sinh sống và cũng không có dấu hiệu nào cho thấy con người đã đến đây cho đến thế kỷ 19. Tuy nhiên, niềm tin về một Terra Australis— một lục địa lớn ở xa về phía nam của Trái Đất nhằm "cân bằng" với nhiều lục địa ở phía bắc của châu Âu, Á và Bắc Mỹ — đã tồn tại từ thời Ptolemy (thế kỷ 1), người đã đưa ra ý tưởng về tính đối xứng của lất cả các khối đất liền đã được biết đến trên thế giới. Thậm chí vào cuối thể kỷ 17, sau khi các nhà thám hiểm tìm thấy Nam Mỹ và Úc không phải là một phần của huyền thoại "Nam Cực", các nhà địa lý tin rằng lục địa này phải lớn hơn kích thước thực của nó.

Các bản đồ của châu Âu vẫn thể hiện vùng đất giả thiết này cho đến khi tàu của thuyền trưởng James Cook, HMS Resolution Adventure băng qua vòng Nam Cực vào ngày 17 tháng 1 năm 1773 và một lần nữa vào tháng 1 năm 1774.[4] Cook đã đi khoảng bờ biển Châu Nam Cực trước khi rút lui khi gặp khối băng vào tháng 1 năm 1773.[5] Việc trông thấy Nam Cực được xác nhận đầu tiên có thể chỉ đối với thủy thủ đoàn chỉ có 3 người. Theo nhiều tổ chức khác nhau (National Science Foundation,[6] NASA,[7] Đại học California tại San Diego,[8] và các nguồn khác),[9][10] các tàu được chỉ huy bởi 3 người đã nhìn thấy Nam Cực hay lớp băng của nó vào năm 1820 là: von Bellingshausen (thuyền trưởng Imperial Russian Navy), Edward Bransfield (thuyền trưởng Royal Navy), và Nathaniel Palmer (người săn hải cẩu của Stonington, Connecticut). Cuộc thám diễm do von Bellingshausen và Lazarev dẫn đầu trên các chiếc tàu Vostok Mirny đã đến điểm từ Queen Maud's Land và ghi nhận việc nhìn thấy lớp băng tại [11] mà nay được gọi là thềm băng Fimbul. Việc nhìn thấy này 3 ngày trứoc khi Bransfield nhìn thấy đất liền, và 10 tháng trứoc khi Palmer nhìn thấy đất liền vào năm 1820. Những người được ghi nhận là đã đến Châu Nam Cực đầu tiên là những người săn hải cẩu Hoa Kỳ John Davis, tại vịnh Hughes, gần Cape Charles, ở Tây châu Nam Cực vào ngày 7 tháng 2 năm 1821, mặc dù nhiều sử gia không đồng tình về tuyên bố này.[12][13] Ghi nhận người đầu tiên đến châu Nam Cực và được xác nhận là Cape Adair vào năm 1895.[14]

  • Năm 1773, nhà thám hiểm hàng hải người Anh James Cook đã đi vòng quanh châu nam cực và vượt vòng nam cực, tới vĩ tuyến 71°10' nam.
  • Năm 1820, hai nhà thám hiểm người Nga Bellingshausen (Fabian Gottlieb von Bellingshausen, Фаддей Фаддеевич Беллинсгаузен) và Lazarev (Mikhail Petrovich Lazarev, Михаил Петрович Лазарев) đã nhìn thấy bờ lục địa.
  • Ngày 16 tháng 1 năm 1901, nhà thám hiểm người Anh Shackleton (Sir Ernest Henry Shackleton) đã đến cực địa từ, cách địa cực 179 km.
  • Ngày 14 tháng 12 năm 1911, đoàn thám hiểm do nhà thám hiểm Na Uy Roald Amundsen dẫn đầu là đoàn thám hiểm đầu tiên đặt chân đến Nam Cực
  • Ngày 18 tháng 1 năm 1912, đến lượt đoàn thám hiểm do nhà thám hiểm người Anh Robert Falcon Scott dẫn đầu là đoàn thám hiểm thứ hai đến Nam Cực

Dấu vết con người[sửa]

Các bằng chứng lịch sử được công nhận rộng rãi cho biết lục địa này đã được con người nhìn thấy lần đầu vào năm 1820 và đổ bộ lên vào năm 1821. Trước đó đã có một bản đồ của đô đốc Piri Reis thuộc hạm đội của đế quốc Ottoman, vẽ vào năm 1513 cho thấy một lục địa phía nam có bờ biển gần giống châu Nam Cực.

Có giả thuyết cho rằng con người đã từng cư ngụ ở châu Nam Cực dựa trên lập luận bản đồ châu này đã có từ thế kỷ 16 do Piri Reis phác họa.[15]

Địa lí[sửa]

Tập tin:Vinson-Massif.jpg
Đỉnh Vinson, nhìn từ vệ tinh của NASA

Châu Nam Cực có diện tích khoảng 14.100.000 km2, đứng thứ tư trên thế giới (sau châu Á, châu Phi và châu Mỹ, lớn hơn châu Âu và châu Úc); không có dân số cố định, có độ cao trung bình lớn nhất và độ ẩm thấp nhất trong số các lục địa trên Trái Đất. Đỉnh Vinson cao nhất dãy núi Ellsworth với độ cao đo được bằng GPS là 4892.17m[16] nằm cách điểm cực nam 1200 km.

Về cơ bản, châu Nam Cực được chia làm hai bởi dải núi chạy giữa biển Ross và biển Weddell, tạo thành miền Đông Nam Cực Tây Nam Cực

Châu Nam Cực nằm chủ yếu trong vòng cực nam. Phần vươn lên phía bắc nhiều nhất là một số đảo và bán đảo Graham, tới vĩ tuyến 63° Nam. Trung tâm của lục địa, điểm cách xa bờ biển nhất-khoảng 1.700 km, nơi khó tới nhất là điểm bất khả tiếp cận có tọa độ .

Lớp băng phủ dày trung bình 1.720 m, có tổng thể tích khoảng 24 triệu km³, chiếm hơn 90% lượng băng trên mặt Trái Đất. Độ cao trung bình bề mặt lục địa trên 2.000 m, cao nhất trong các châu lục. Khoảng 1% mặt lục địa không có băng phủ, hình thành những ốc đảo. Châu Nam Cực có khá nhiều ốc đảo, rộng từ vài km² tới vài trăm km² (ốc đảo Banghera rộng 952 km²).

Tập tin:Antarctic surface temperature.png
Nhiệt độ mùa đông và mùa hè Nam Cực

Nhiệt độ lạnh nhất đo được là âm 94,5 độ C tại Vostok (trạm Phương Đông), trạm cao nhất có con người làm việc. Nhiệt độ trên bình nguyên Nam cực khoảng âm 60 °C trong suốt nửa năm liền. Đó là mùa đông địa cực. Sau đó, chuyển sang mùa hè (khoảng từ giữa tháng 12 năm này tới giữa tháng 1 năm sau) với nhiệt độ có thể lên tới âm 30°C. Lượng tuyết rơi hàng năm tại điểm Cực Nam chưa tới 2,5 cm (quy ra mực nước). Còn ở Bán đảo Nam cực, lượng này là 90 cm.

Nhiệt độ trung bình thấp của không khí đã ngưng tụ hơi nước, đóng băng tạo nên độ ẩm rất thấp, làm cho da tay và da mặt dễ bị nứt nẻ khi làm việc tại Nam Cực.

Một đặc điểm khác thường ở khí quyển Nam cực là, ở gần mặt đất, nhiệt độ tăng lên dần theo độ cao. Trong khi ở các vùng địa lý khác, trong tầng đối lưu, càng lên cao, nhiệt độ càng giảm. Sự khác biệt về nhiệt độ có thể lên tới 30 °C trong vòng 100 mét độ cao.

Địa chất[sửa]

Ngày 4 tháng 6 năm 2006, các nhà địa chất học đưa ra giả thuyết rằng một hố lớn được tìm thấy dưới dải băng tại Wilkes Land có liên quan tới Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias, một sự kiện tuyệt chủng lớn nhất trong lịch sử Trái Đất.

Mặc dù rất lạnh, châu Nam Cực cũng đã từng có núi lửa hoạt động. Hiện tại còn bốn miệng núi lửa lớn trong lục địa: núi Melbourne (núi lửa tầng cao 2,732 m, tại (74°21'N., 164°42'Đ.)), núi Berlin (núi lửa tầng cao 3,500 m, tại 76°03'N., 135°52'T.), núi Kauffman (núi lửa tầng cao 2,365 m, tại 75°37'N., 132°25'T.) và núi Hampton (núi lửa hõm chảo caldera cao 3,325 m, tại 76°29'N., 125°48'T.). Ngoài ra, còn một số núi lửa khác nằm ngoài khơi như núi lửa tầng Erebus cao 3,795 m.

Khí hậu[sửa]

Xem chi tiết: Khí hậu Châu Nam Cực
Tập tin:Fryxellsee Opt.jpg
Băng xanh phủ trên Hồ Fryxell, thuộc dãy núi Transantarctic, hình thành từ nước băng tan của sông băng Canada và các sông băng nhỏ khác.
Tập tin:AntarcticaSummer.jpg
Gần bờ biển, tháng 12 có nhiệt độ khá ôn hòa.

Châu Nam Cực là lục địa lạnh nhất trên Trái Đất. Nhiệt độ tự nhiên thấp nhất ghi nhận được trên Trái Đất là tại trạm Vostokt của Liên Xô (nay là Nga) ở Nam Cực vào ngày 21 tháng 7 năm 1983.[17] Nhiệt độ này thấp hơn nhiệt độ của nước đá khô 11 °C (20 °F) ở 1 atm áp suất riêng phần, nhưng vì CO2 chỉ chiếm 0,039% trong không khí, nhiệt độ dưới -150 °C có thể cần đạt được để tạo ra tuyết đá khô ở Nam Cực. Nam Cực là hoang mạc lạnh với lượng giáng thủy rất thấp; tại điểm Cực Nam lượng giáng thủy nhận được trung bình ít hơn /năm. Giá trị nhiệt độ thấp nhất nằm trong khoảng trong nội địa vào mùa đông và lớn nhất khoảng gần bờ biển vào mùa hè. Cháy nắng là một vấn đề về sức khỏe khi mà bề mặt băng tuyết phản xạ gần như toàn bộ tia tử ngoại chiếu lên nó. Theo vĩ độ, thời gian bóng tối kéo dài hoặc ánh sáng ngày liên tục tạo ra khí hậu rất khó chịu đối với con người ở hầu hết các nơi trên lục địa này.[18]

Tập tin:AntarcticaDomeCSnow.jpg
Bề mặt băng tuyết ở trạm Dome C là dạng đặc trưng của bề mặt Nam Cực.

Phần phía Đông Châu Nam Cực lạnh hơn phần phía Tây do nó có độ cao lớn hơn. Front khí hậu hiếm khi lấn vào sâu trong nội lục, khiến cho phần trung tâm lạnh và khô. Mặc dù không có mưa và tuyết trên phần trung tâm của lục địa, băng ở đây duy trì trong thời gian dài. Tuyết rơi dày phổ biến ở phần ven biển của lục địa, có nơi lượng tuyết rơi lên đến trong 48 giờ.

Ở rìa lục địa, gió Katabatic mạnh thổi qua cao nguyên cực với vận tốc gió bão. Trong nội lục, gió có tốc độ trung bình. Vào những ngày trời trong vào mùa hè, lượng bức xạ mặt trời đến bề mặt Nam Cực nhiều hơn so với xích đạo do có 24 giờ nắng mỗi ngày ở Cực.[19]

Nam Cực lạnh hơn Bắc Cực vì 3 lý do. Thứ nhất, hầu hết lục địa này cao hơn so với mực nước biển và nhiệt độ giảm theo độ cao ở tầng đối lưu. Thứ hai, Bắc Băng Dương bao phủ vùng cực Bắc: độ ấm tương đối của biển được truyền qua lớp băng và ngăn nhiệt ở các vùng Bắc Cực đạt đến nhiệt độ cực cao như ở vùng bề mặt Nam Cực. Thứ ba, Trái Đất đạt đến điểm viễn nhật vào tháng 7 (Trái Đất nằm xa Mặt Trời nhất trong mùa đông Nam Cực), và Trái Đất đạt điểm cận nhật vào tháng 1 (lúc đó Trái Đất gần mặt trời nhất vào mùa hè Nam Cực). Khoảng cách quỹ đạo góp phần làm cho mùa đông Nam Cực lạnh hơn (và mùa hè Nam Cực ấm hơn) so với Bắc Cực, nhưng hai nguyên nhân đầu là có ảnh hưởng mạnh nhất.[20]

Nam Cực quang, thường được gọi là ánh sáng phương Nam, là một ánh sáng rực rõ quan sát được trên bầu trời đêm gần Nam Cực tạo ra bởi gió mặt trời với thành phần toàn plasma khi đi qua Trái Đất. Một cảnh tượng đặc biệt khác là bụi kim cương, một đám mây tầng thấp bao gồm các tinh thể băng nhỏ. Nó thường hình thành trong điều kiện trời trong hoặc gần trong, vì vậy mọi người đôi khi cũng gọi nó là bầu trời mưa trong. Mặt trời giả là một hiện tượng quang học trong khí quyển thường gặp, là một điểm sáng bên cạnh mặt trời thật.[18]

Dân số[sửa]

Tập tin:Antarctic researchers.jpg
Hai nhà khoa học đang nghiên cứu về phiêu sinh vật tại Nam Cực
Tập tin:Fieldwork-Melnik.jpg
Nghiên cứu thực địa
Tập tin:Solveig-Jacobsen.jpg
Solveig Jacobsen đứng cạnh con chó của cô bé, năm 1916

Nhiều quốc gia đã gửi những nhà nghiên cứu đến cư trú thường xuyên trong các trạm nghiên cứu rải rác trên toàn châu lục. Số lượng những người làm công tác nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu ở đây dao động từ 1.000 người vào mùa đông và 5.000 người vào mùa hè.

Trạm cư trú đầu tiên được thiết lập tại Nam Cực vào năm 1786 bởi các ngư dân săn hải cẩu Anh Mỹ. Họ đã lập những trạm cư trú tạm thời trên đảo Georgia để sống qua mùa đông Nam Cực trong thời gian một năm hay nhiều hơn. Trong suốt thời kỳ săn cá voi (kết thúc vào năm 1966), số dân trên toàn châu lục là khoảng 1.000 người (có những năm vượt 2.000 người) vào mùa hè và 200 người vào mùa đông. Phần lớn những thợ săn cá voi là người Na Uy và những năm tiếp theo người ta ghi nhận thấy sự gia tăng của những người có quốc tịch Anh. Các điểm quần cư khi đó gồm có Grytviken, Leith Harbour, King Edward Point, Stromness, Husvik, Prince Olav Harbour, Ocean Harbour Godthul. Những người quản lý công việc săn bắt cá voi thường sống ở đây với gia đình họ. Một trong số đó là Đại tá Carl Anton Larsen, người thành lập nên Grytviken là một nhà thám hiểm và săn bắn cá voi người Na Uy, sau đó nhập quốc tịch Anh vào năm 1910.

Đứa trẻ đầu tiên sinh ra ở vùng cực nam Trái Đất này là một bé gái người Na Uy có tên Solveig Gunbjörg Jacobsen. Jacobsen sinh ngày 8 tháng 11 năm 1913 và là con gái của Fridthjof Jacobsen, trợ lí của một trạm đánh bắt cá voi và vợ Klara Olette Jacobsen. Jacobsen đến đảo vào năm 1904 và trở thành quản lý của Grytviken từ 1914 đến 1921; hai đứa trẻ của ông được sinh ra ở Nam Cực [21].

Emilio Marcos Palma là người đầu tiên được sinh ra trong lục địa Nam Cực tại trạm Base Esperanza vào năm 1978; cha mẹ của anh cùng với 7 hộ gia đình khác được chính phủ Argentina đưa đến lục địa Nam Cực để chứng minh liệu con người có thể sinh sống được trong điều kiện khắc nghiệt của môi trường hay không. Năm 1984, Juan Pablo Camacho trở thành đứa trẻ Chile đầu tiên được sinh ra ở Nam Cực tại trạm Frei Montalva Station. Rất nhiều trạm (căn cứ) hiện trở thành nhà và trường học của con em những người sống trên Nam Cực [22].

90px 90px 90px 90px 90px 90px 90px
Argentina Úc Chile Pháp New Zealand Na Uy Liên hiệp Anh
Thời gian Quốc gia Lãnh thổ Giới hạn chiếm đóng
1908 20°T đến 80°T
1923 Ross Dependency 150°T to 160°Đ
1924
  1. redirect
Adélie Land 142°2'Đ to 136°11'Đ
1929 Đảo Peter I
1933  Australia Cờ Úc Australian Antarctic Territory 160°Đ đến 142°2'T và
136°11'Đ đến 44°38'Đ
1939 Queen Maud Land 44°38'Đ đến 20°T
1940 Antártica 53°T đến 90°T
1943 Argentine Antarctica 25°T đến 74°T
Không Lãnh thổ chưa bị chiếm đóng
(Marie Byrd Land)
90°T đến 150°T
(trừ Peter I Island)

Chủ quyền[sửa]

Tập tin:Emblem of the Antarctic Treaty.svg
Huy hiệu của hiệp ước châu Nam Cực từ 2002.
Tập tin:Antarctica Station Map.png
29 chương trình châu Nam Cực quốc gia ủng hộ khoa học ở đây (2009)

Châu Nam Cực không có chính phủ, tuy nhiên nhiều quốc gia đã tuyên bố chủ quyền ở một số vùng. Mặc dù một ít trong số các quốc gia này đã công nhận qua lại chủ quyền của nhau,[23] giá trị pháp lý không được công nhận tổng quát.[19]

Những tuyên bố mới dành chủ quyền ở châu Nam Cực đã không được xét tới từ 1959 và châu Nam Cực được xem là trung lập về chính trị. Tình trạng pháp lý của nó được quy định qua hiệp ước châu Nam Cực 1959 và những thỏa hiệp tương tự, mà cùng được gọi chung là Hệ thống hiệp ước châu Nam Cực. Châu Nam Cực được định nghĩa là vùng đất và những Thềm băng nằm phía nam của 60° S. Hiệp ước châu Nam Cực đã được 12 nước ký, trong đó có Liên Xô (bây giờ là Nga), Vương quốc Anh, Argentina, Chile, Úc, và Hoa Kỳ.[24] Nó được xem là vùng đất nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường, và cấm các hoạt động quân sự ở đây. Hiệp ước này là thỏa hiệp kiểm soát vũ khí đầu tiên được hình thành trong thời kỳ chiến tranh lạnh.

Sinh quyển[sửa]

Động vật[sửa]

Thực vật[sửa]

Hiệu ứng nóng lên toàn cầu[sửa]

Tập tin:AntarcticaTemps 1957-2006.jpg
Xu hướng nóng lên từ 1957 đến 2006
Xem chi tiết: Ấm lên toàn cầu

Một số vùng của Châu Nam Cực đang ấm lên; đặc biệt sự ấm lên mạnh được ghi nhận ở bán đảo Nam Cực. Nghiên cứu của Eric Steig công bố năm 2009 chỉ ra rằng lần đầu tiên xu hướng nhiệt độ bề mặt trung bình trên toàn lục địa Nam Cực tăng nhẹ khoảng >0,05 °C (0,09 °F) trong mỗi thập niên từ 1957 đến 2006. Nghiên cứu này cũng cho thấy Tây Nam Cực đã ấm lên hơn 0,1 °C (0,2 °F) mỗi thập niên trong vòng 50 năm qua, và sự ấm lên này mạnh nhất trong mùa đông và xuân. Điều này được bù đắp một phần bởi sự lạnh đi ở Đông Nam Cực.[25] Đây là dấu hiệu ghi nhận được chỉ từ một nghiên cứu ở Nam Cực về sự ấm lên do sự phát thải cacbon dioxit của con người.[26] Tuy nhiên, một lượng nhỏ bề mặt ấm lên ở Tây Nam Cực không chắc chắn so với tác động trực tiếp đến sự đóng góp của mũ băng Tây Nam Cực đối với sự gia tăng mực nước biển. Thay vào đó, sự gia tăng các dòng chảy ra của sông bằng được tin là do dòng chảy vào ấm của các dòng hải lưu sâu ngoài khơi thềm lục địa.[27][28] Đóng góp chính thức vào sự gia tăng mực nước biển từ bán đảo Nam Cực có thể là kết quả trực tiếp của sự ấm lên của khí quyển lớn hơn nhiều ở đây.[29]

Năm 2002, lớp băng Larsen-B của bán đảo Nam Cực đổ sụp.[30] Trong giai đoạn từ 28 tháng 2 đến 8 tháng 3 năm 2008, khoảng diện tích băng của lớp băng Wilkins ở phần Tây Nam của bán đảo đổ sụp, làm cho phần diện tích còn lại của lớp băng cũng có nguy cơ lở tiếp. Lớp băng đang đóng trở lại với bề rộng khoảng ,[31][32] trước khi nó sụp đổ vào ngày 5 tháng 4 năm 2009.[33][34] Theo NASA, sự tan chảy băng bề mặt Nam Cực diễn ra rộng khắp lớn nhất trong vòng 30 năm qua vào năm 2005, khi đó một khu vực có diện tích gần bằng kích thước California tan chảy trong một thời gian ngắn; đây có thể là kết quả của sự gia tăng nhiệt độ cao đến .[35]

Một nghiên cứu được công bố trong lần tái bản thứ sáu của tạp chí Nature Geoscience năm 2013 (xuất bản trên mạng vào tháng 12 năm 2012) đã xác định trung tâm Tây Nam Cực là một trong những vùng ấm lên nhanh nhất trên Trái Đất. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra số liệu nhiệt độ đầy đủ từ trạm Byrd ở Nam Cực và khẳng định "có sự gia tăng nhiệt độ tuyến tính hàng năm từ năm 1958 đến năm 2010 khoảng 2,4 ± 1,2 °C". Tại thời điểm nghiên cứu đã được công bố, các nhà nghiên cứu Mỹ đã liên kết với Trường Đại học tiểu bang Ohio, Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khí quyển Hoa Kỳ và Đại học Wisconsin-Madison.[36]

Các bức hình cho thấy mực băng quanh châu Nam Cực trong bốn năm khác nhau vào tháng 6

Suy giảm tầng ôzôn[sửa]

Tập tin:NASA and NOAA Announce Ozone Hole is a Double Record Breaker.png
Hình ảnh lỗ hổng ôzôn Nam Cực theo sự ghi nhận sự tích tụ CFC (tháng 9 năm 2006)
Xem chi tiết: Sự suy giảm ôzôn

Mỗi năm một khu vực lớn có nồng độ ôzôn thấp hay lỗ thủng ôzôn phát triển khắp Châu Nam Cực. Lỗ hổng này bao phủ gần như toàn bộ lục địa này và nó mở rộng lớn nhất vào tháng 9 năm 2008, và kéo dài dài nhất cho đến tháng 12.[37] Lỗ hổng này được các nhà khoa học phát hiện vào năm 1985[38] và hiện đang mở rộng trong những năm quan sát được. Lỗ thủng tầng ôzôn là do sự phát thải của các khí CFC vào khí quyển, chất khí này làm phân hủy ôzôn thành các khí khác.[39]

Một số nghiên cứu khoa học cho rằng sự suy giảm tầng ôzôn có thể có vai trò chủ đạo trong việc quản trị sự thay đổi khí hậu ở Châu Nam Cực (và các khu vực rộng hơn ở Nam Bán Cầu).[38] Ôzôn hấp thụ một lượng lớn các tia tử ngoại ở tầng bình lưu. Sự suy giảm ôzôn ở Châu Nam Cực có thể làm nhiệt độ lạnh đi khoảng 6 °C ở tầng bình lưu địa phương. Sự lạnh đi này có tác dụng tăng cường gió tây thổng xung quanh lục địa này và điều đó làm ngăn cản dòng không khí lạnh thổi ra gần Cực Nam. Kết quả là, lục địa của mũ băng đông Nam Cực được giữ ở nhiệt độ thấp hơn, và các khu vực ngoại vi của Châu Nam Cực, đặc biệt là bán đảo Nam Cực, có nhiệt độ cao hơn làm thúc đẩy băng tan nhanh hơn.[38] Các mô hình cũng đề xuất rằng sự suy giảm ôzôn/tăng cường ảnh hưởng của polar vortex cũng góp phần làm tăng băng biển gần đây ở ngoài khơi gần lục địa này.[40]

Xem thêm[sửa]

Ghi chú[sửa]

  1. British Antarctic Survey. Bedmap2: improved ice bed, surface and thickness datasets for Antarctica. The Cryosphere journal. p. 390. http://www.the-cryosphere.net/7/375/2013/tc-7-375-2013.pdf. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2014.
  2. National Satellite, Data, and Information Service. “National Geophysical Data Center”. Government of the United States. Bản chính lưu trữ Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  3. Joyce, C. Alan (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.). “The World at a Glance: Surprising Facts”. The World Almanac. Bản chính lưu trữ Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  4. “Age of Exploration: John Cook”. The Mariners' Museum. Bản chính lưu trữ Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  5. James Cook, The Journals, edited by Philip Edwards. Penguin Books, 2003, p. 250.
  6. U.S. Antarctic Program External Panel of the National Science Foundation. “Antarctica—Past and Present” định dạng (PDF). Government of the United States. Bản chính lưu trữ Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  7. Guthridge, Guy G. “Nathaniel Brown Palmer, 1799–1877”. Government of the United States, National Aeronautics and Space Administration. Bản chính lưu trữ Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  8. “Palmer Station”. University of the City of San Diego. Bản chính lưu trữ Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  9. “An Antarctic Time Line: 1519–1959”. South-Pole.com. Bản chính lưu trữ Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  10. “Antarctic Explorers Timeline: Early 1800s”. Polar Radar for Ice Sheet Measurements (PRISM). Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  11. Erki Tammiksaar, “Punane Bellingshausen”, ngày 14 tháng 12 năm 2013. (Viết bằng Estonian.)
  12. Bourke, Jane (2004). Amazing Antarctica. Ready-Ed Publications. ISBN 1863975845.
  13. Joyner, Christopher C. (1992). Antarctica and the Law of the Sea. Martinus Nijhoff Publishers. tr. 5.
  14. Primary society and environment Book F. Australia: R.I.C. Publications. 2001. tr. 96. ISBN 1741261279.
  15. “Từng có một nền văn minh ở Nam cực?”. VnExpress (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.). Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  16. GPS waypoint of Vinson
  17. Hudson, Gavin (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.). “The Coldest Inhabited Places on Earth”. Eco Localizer. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  18. 18,0 18,1 British Antarctic Survey. “Weather in the Antarctic”. Natural Environment Research Council. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  19. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên CIAfactbook-People
  20. The Earth's Elliptical Orbit Around the Sun – Aphelion and Perihelion. Geography.about.com. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2013.
  21. R.K. Headland, The Island of South Georgia, Cambridge University Press, 1984.
  22. “Questions and answers”. The Antarctic Sun. Bản chính lưu trữ Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  23. Rogan-Finnemore, Michelle (2005). "What Bioprospecting Means for Antarctica and the Southern Ocean". trong Von Tigerstrom, Barbara. International Law Issues in the South Pacific. Ashgate Publishing. tr. 204. ISBN 0-7546-4419-7. "Australia, New Zealand, France, Norway and the United Kingdom reciprocally recognize the validity of each other's claims." – Google Books link: [1]
  24. “Antarctic Treaty System – Parties”. Antarctic Treaty and the Secretariat. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  25. Pritchard, H., and D. G. Vaughan (2007). "Widespread acceleration of tidewater glaciers on the Antarctic Peninsula". Journal of Geophysical Research 112. doi:10.1029/2006JF000597. Bibcode2007JGRF..11203S29P.
  26. Glasser, Neil, “Antarctic Ice Shelf Collapse Blamed On More Than Climate Change”, ngày 10 tháng 2 năm 2008.
  27. “Huge Antarctic ice chunk collapses”, Cable News Network, ngày 25 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2008. Bản chính được lưu trữ ngày ngày 29 tháng 3 năm 2008.
  28. “Massive ice shelf on verge of breakup”, Cable News Network, ngày 25 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2008. Bản chính được lưu trữ ngày ngày 29 tháng 3 năm 2008.
  29. “Ice Bridge Holding Antarctic Shelf in Place Shatters”, ngày 5 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2009. Bản chính được lưu trữ ngày ngày 8 tháng 4 năm 2009.
  30. “Ice bridge ruptures in Antarctic”, British Broadcasting Corporation, ngày 5 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2009. Bản chính được lưu trữ ngày ngày 5 tháng 4 năm 2009.
  31. “Big area of Antarctica melted in 2005”, Cable News Network, ngày 16 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2007. Bản chính được lưu trữ ngày ngày 18 tháng 5 năm 2007.
  32. H. Bromwich, David; Julien P. Nicolas (2013). "Central West Antarctica among the most rapidly warming regions on Earth". Nature Geoscience 6 (6): 139–145. doi:10.1038/ngeo1671.
  33. British Antarctic Survey, Meteorology and Ozone Monitoring Unit. “Antarctic Ozone”. Natural Environment Research Council. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  34. 38,0 38,1 38,2 Schiermeier, Quirin (ngày 12 tháng 8 năm 2009). "Atmospheric science: Fixing the sky". Nature (Nature Publishing Group) 460 (7257): 792–795. doi:10.1038/460792a. PMID 19675624. http://www.nature.com/news/2009/090812/full/460792a.html. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2009.
  35. National Aeronautics and Space Administration, Advanced Supercomputing Division (NAS) (Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.). “The Antarctic Ozone hole”. Government of the United States. Bản chính lưu trữ Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định.. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  36. Turner J., Comiso J.C., Marshall G.J., Lachlan-Cope T.A., Bracegirdle T., Maksym T., Meredith M.P., Wang Z., Orr A. (2009). "Non-annular atmospheric circulation change induced by stratospheric ozone depletion and its role in the recent increase of Antarctic sea ice extent". Geophysical Research Letters 36 (8): L08502. doi:10.1029/2009GL037524. Bibcode2009GeoRL..3608502T.

Liên kết ngoài[sửa]

(bằng tiếng Anh)

Liên kết đến đây

Xem thêm liên kết đến trang này.