Alexandros Đại đế
Bản mẫu:Thông tin nhân vật hoàng gia
Alexandros III của Macedonia, được biết rộng rãi với cái tên Alexandros Đại đế[1], (tiếng Hy Lạp: Bản mẫu:Polytonic[2], Megas Alexandros, tiếng Latinh: Alexander Magnus) (tháng 7 năm 356 TCN – 11 tháng 6 năm 323 TCN), là Quốc vương thứ 14 của nhà Argead ở Vương quốc Macedonia (336 – 323 TCN), nhưng ít dành thời gian cho việc trị quốc tại quê nhà Macedonia. Trong suốt Triều đại của ông, người chiến binh này chủ yếu dành thời gian cho các cuộc chinh phạt,[3] và được xem là một trong những vị tướng thành công nhất trong lịch sử, người đã chinh phạt gần như toàn bộ thế giới mà ông biết trước khi qua đời;[4] và vì thế ông thường được xem là một trong những chiến lược gia quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử.[5]
Sau khi thống nhất các thành bang Hy Lạp cổ đại dưới sự cai trị của vua cha Philipos II[6], Alexandros chinh phục Đế chế Ba Tư, bao gồm cả Tiểu Á, Syria, Phoenicia, Gaza, Ai Cập, Bactria và Lưỡng Hà và mở rộng biên cương đế chế của ông đến xa tận Punjab thuộc Ấn Độ ngày nay. Chiến thắng của ông trước quân Ba Tư trong trận Gaugamela - chiến thắng quyết định thứ ba của ông trước vua Ba Tư Darius III - được xem là chiến công hiển hách nhất trong thời kỳ cổ đại; không những thế ông còn đánh tan tác người Scythia - một dân tộc bách chiến bách thắng thời bấy giờ.[7][8] Alexandros thực hiện một chính sách hòa hợp: ông đưa cả những người ngoại quốc (không phải người Hy Lạp hay người Macedonia) vào chính quyền và cả quân đội của mình, ông khuyến khích hôn nhân giữa các tướng sĩ của mình với người nước ngoài và chính ông cũng lấy vợ ngoại quốc.
Sau mười hai năm liên tục thân hành cầm quân đánh đâu thắng đó, vua Alexandros Đại Đế qua đời, có lẽ là do sốt rét, thương hàn, hay viêm não do virút. Những cuộc chinh phạt của ông mở đầu cho nhiều thế kỉ định cư và thống trị của người Hy Lạp trên nhiều vùng đất xa xôi, một giai đoạn được gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa. Bản thân ông cũng sống trong lịch sử và trong các truyền thuyết của các nền văn hóa Hy Lạp và không Hy Lạp. Ngay khi ông còn sống, và đặc biệt sau khi ông qua đời, những cuộc chinh phạt của ông đã là nguồn cảm hứng của một truyền thống văn học mà trong đó ông xuất hiện như là một anh hùng huyền thoại theo truyền thống của Achilles (Asin) năm xưa. Không những vị vua trẻ tuổi này trở thành nhà chinh phạt xuất sắc nhất của Hy Lạp cổ điển, ông còn là một vị anh hùng trong truyền thống Hồi giáo, người Ả Rập gọi ông là Iskandar.[9]
Mục lục
Thời thơ ấu[sửa]
Alexandros Đại đế là con trai của vua Philipos II của Macedonia và người vợ thứ tư, công chúa Olympias xứ Ipiros. Thông qua vị vua khai quốc Macedonia là Karanos, Alexandros là hậu duệ của anh hùng Heracles. Bên họ mẹ ông, Alexandros là con cháu của Aeacides thông qua anh hùng Neoptolemus. Thông qua mẹ ông, Alexandros là anh họ thứ hai của một vị vua - chiến binh lỗi lạc khác là Pyrros. Pyrros là Quốc vương xứ Ipiros, tài năng của ông này đã làm cho nhân dân Macedonia nhớ tới Quốc vương Alexandros Đại Đế xưa kia, và danh tướng Hannibal đã đặt ông thứ hai trong danh sách các vị danh tướng kiệt xuất nhất, chỉ sau Quốc vương Alexandros.[10] Trong tiểu sử Alexandros Đại Đế, Plutarchus ghi nhận: Người ta nói rằng, vua cha Philippos II của ông lúc còn trẻ đã yêu cô thiếu nữ Olympias (lúc bấy giờ cả cha lẫn mẹ của bà đã qua đời) trên hòn đảo nhỏ Samothracia, tại đây họ được làm quen và hiểu được những phép lạ của giới tăng lữ: và sau đó, Philippos II hỏi ý anh trai của Olympias là vua Arymbas về việc kết hôn với bà, và vua này chấp thuận. Trong đêm trước khi cặp đôi nằm trên giường cưới, Olympias nằm mộng thấy sấm sét đánh vào tử cung của bà, và một ngọn lửa sáng rực tự gieo rắc nó thành nhiều đống lửa khác nhau. Còn vua Philippos II thì chiêm bao thấy mình niêm phong tử cung của Olympias, và con dấu niêm phong của ông có in hình một con mãnh sư. Tuy các thầy pháp và nhà tiên tri khuyên vua cần phải cảnh giác với vợ mình qua giấc chiêm bao này, nhưng Aristander người xứ Telmessus đổi ý: ông cho rằng Hoàng hậu Olympias đang có thai và không gì có thể che giấu được điều này, và thai nhi của bà chứa một hoàng nam có tính khí của loài mãnh sư.[11]
Cũng chính Plutarchus có kể lại một câu chuyện như sau: Nhiều lần ngủ trên giường của mình, Olympias thích nằm chung với rắn, mà có người cho rằng đây là nguyên nhân lớn nhất khiến cho nhà vua ghẻ lạnh với bà. Do đó, vua không nằm nhiều với bà, khác với lúc trước: hoặc là do vua sợ một sức mê hoặc hay bùa phép nào đó, hoặc là vua lo sợ rằng một vị thần linh nào đó đã yêu Olympias, mà mình là người trần mắt thích không thể gặp được chư thần. Có người lại thuật câu chuyện này theo một lối nói khác: rằng phụ nữ các vùng đất Cổ Hy Lạp thời đó có được tâm hồn của thần Orpheus và tính nóng nảy thánh thiêng của thần Bacchus, do đó họ được gọi là Clodones và Mimallones (nghĩa là hung dữ, hiếu chiến), và làm những việc giống như các phụ nữ xứ Edonia và Thrace, sinh sống ở miền núi Aemus. Và do đó, có lẽ từ ngữ threskeuin tiếng Hy Lạp cổ đại (nghĩa là lòng thành kính quá mãnh liệt đối với chư thần) bắt nguồn từ họ. Olympias phải truyền cảm chư thần bằng sự điên cuồng và đanh đá thiêng liêng của mình, vì vậy trong những buổi lễ cúng tế thần linh, bà thường làm những trò hết sức man rợ và khủng khiếp. Bà múa cho thần Bacchus xem cùng với những con rắn xung quanh mình, làm đám đàn ông phát sợ.[11]
Nói chung, sau khi có chiêm bao, vua Philippos II sai Chaero người xứ Megalopolis) đến ngôi điện thờ thần Apollo tại Delphi, để hỏi ý thần linh xem giấc mộng của vua báo hiệu điều gì sẽ xảy ra? Philippos II đã nhận được câu trả lời rằng, ông phải thờ phụng thần Zeus chu đáo, hơn hết tất cả mọi vị thần khác. Và, nhà vua đã bị mất một con mắt khi đi chinh chiến, mà với con mắt này ông đã nhìn trộm qua buồng ngủ của vợ, thấy thần linh đội lốt loài rắn mà ngủ chung với vợ ông. Hơn nữa, theo như Eratosthenes, sau này khi Alexandros Đại Đế lên đường chinh phạt Á châu, Olympias đã tử tế từ biệt con mình, sau khi bà đã nói riêng với ông rằng ông thực chất là con của ai? Bà đã cúng tế vị thần ấy như thế nào? Để rồi ông thật xứng đáng là con của vị thần ấy. Cũng có người viết rằng Olympias bác bỏ huyền thoại này, bà nói:[11]
“ | Alexandros sẽ không bao giờ để ta phải gây gổ với vợ thần Zeus chứ? | ” |
Lại nói, Hoàng tử Alexandros sinh vào ngày thứ sáu trong tháng sáu (tức tháng Hecatombaeon theo cách gọi của người Hy Lạp cổ đại, hoặc tháng Lous theo cách gọi của người Macedonia thời đó). Đúng ngày mà Alexandros được sinh ra, ngôi đền thờ thần Artemis ở Ephesus bị cháy rụi. Hegesias người xứ Magnesius có chứng kiến trận cháy kinh hoàng này, và lời than vãn cùng tiếng kêu ca của thần nữ Artemis thật quá lạnh lẽo đến mức nó có thể làm dập tắt đám cháy. Theo Plutarchus, không lạ gì nếu Artemis để cho ngôi đền này bị bùng cháy là do bà đang phải coi sóc vị vua tương lai Alexandros Đại Đế. Tuy nhiên, mọi giáo sĩ, nhà tiên tri và thầy pháp ở đều dự báo về sự đến gần của một hiểm họa cực kỳ nghiêm trọng: nét mặt họ hết sức hoảng sợ, họ phải chạy quanh, rồi chạy vào thành phố Ephesus vào kêu ca rằng, trận cháy là điềm báo trong ngày hôm ấy, một sức mạnh vô biên đã ra đời vào và sẽ tiêu diệt châu Á sau này. Ít lâu sau đó, Philippos II chiếm lĩnh được thành phố Potidae, và có ba tin vui đến với nhà vua làm cho ông hết sức sung sướng: trước tiên, danh tướng Parmenion đã đại phá tan tác quân Illyria, thứ hai, con ngựa của ông thắng giải và đạt được vòng nguyệt quế trong kỳ Thế vận hội tại Olympía lần này, và cuối cùng, Hoàng hậu Olympias đã hạ sinh một hoàng nam tên là Alexandros. Niềm sướng vui của nhà vua càng trở nên tột độ khi các nhà tiên tri tiên đoán rằng, do Alexandros đã hạ sinh giữa ba chiến thắng, vị vua tương lai sẽ đánh đâu thắng đó.[11]
Vóc dáng của Alexandros được thể hiện rõ nhất qua những bức tượng do Lyssipus tạc, theo Plutarchus, Lyssipus là người nghệ nhân xứng đáng nhất để tạc chân dung vị vua vĩ đại. Và trên thực tế, những đặc điểm của Alexandros mà sau này nhiều bạn hữu và vua chúa kế tục luôn mong muốn được kế thừa từ ông: cái cổ hơi nghiêng về bên trái, và đôi mắt ẩm ướt đã được hoàn toàn thừa nhận bởi các nghệ sĩ về sau. Họa sĩ Apelles sau này cũng có vẽ tranh Alexandros Đại Đế nắm giữ sấm sét trông giống như thần Zeus, tuy không nhấn mạnh rõ đến làn da của ông, nhưng làm cho nó thật tối, ngăm đen. Người ta thường nói Alexandros rất đẹp trai và vẻ đẹp của ông được thể hiện bởi phần da hồng sẫm nhạt ở xung quat ngực và mặt của ông. Vả lại, theo "Hồi ký" của Aristoxienus, miệng và thịt của Alexandros có vị ngọt ngào, trong khi làn da của ông có hương thơm ngát, đến mức ngấm vào mọi y phục của Alexandros. Có lẽ sự tỏa hương này là do tính khí nóng nảy của Alexandros, theo lời bàn của Plutarchus.[11]
Bấy giờ, vua nước Ba Tư phái sứ thần đến triều kiến Hoàng gia Macedonia, giữa lúc vua cha Philippos II đang phải đi chinh chiến ở phương xa nên Hoàng tử Alexandros vui vẻ tiếp đón phái sứ, và được họ nể phục vì sự nhã nhặn của mình. Bởi vì ông không hề hỏi họ những câu hỏi mang tính con nít, không thèm quan tâm đến những vấn đề linh tinh.[11] Trong cuộc đời, điều mà Alexandros khao khát hơn là hành động và vinh quang, chứ không phải thú vui và giàu có. Alexandros khao khát được nổi tiếng đến mức khi nghe về cuộc chinh phục của vua cha Philippos II, chàng không hề sung sướng vì được thừa hưởng một gia tài và quyền lực càng tăng thêm mà chỉ cảm thấy không vui vì những vùng đất còn lại cho chàng chinh phục giờ đây nhỏ nhé dần. Alexandros thường than phiền với bạn bè rằng nếu cứ đà này thì một khi chàng lên nối ngôi vua, trên thế giới sẽ chẳng còn việc gì để làm.
Alexandros chỉ muốn đất nước mình gặp khó khăn hay gây chiến tranh. Lúc đó chàng sẽ có môi trường lớn để thử thách lòng dũng cảm của mình và ghi lại dấu ấn của mình trong lịch sử. Chàng khinh thường cuộc sống no đủ và lười biếng.
Trong suốt cuộc đời chinh chiến của mình, Alexandros luôn cưỡi con thần mã yêu quý Bucephalus. Câu chuyện Alexandros thuần phục được nó ngay từ khi còn nhỏ là một trong những mẩu chuyển tiêu biểu nhất Alexandros, thể hiện tài nghệ của chàng ngay từ khi còn nhỏ như vậy. Theo trước tác của Plutarchus, mọi sự mở đầu với việc một lái buôn người xứ Thessaly là Philoneicus đã mang con thần mã dũng mãnh này đến bán cho vua Philippos II, với giá là 13 đồng talent. Nhà vua và các quan cận thần trong Triều đình cũng ra một cánh đồng, và tại đó mọi người thay nhau ra sức thuần phục con thần mã. Con thần mã thật quá hung dữ và khó có thể bị chế ngự: nó không cho bất kỳ một ai cưỡi lên lưng nó, nó cũng không để tâm đến bất kỳ một lời khuyên nào của mọi người dưới sự cổ vũ của Philippos II mà toàn là hất họ ra. Nhà vua tức giận, bèn đem trả con ngựa táo tợn này vì nó thật quá hoang dã và không thể kiềm chế được, nhưng Alexandros khi đang đứng đó, liền nói:[12]
“ | Họ mất một con ngựa như thế chẳng qua là vì họ chẳng có kinh nghiệm và thật quá hèn nhát để có thể thu phục được nó. | ” |
Đầu tiên Philippos II vẫn im lặng chứ không thèm để ý. Nhưng do Alexandros vẫn than vãn lặp đi lặp lại và trở nên hết sức là buồn bã, vua cha mới phán con: " Hoàng nhi cứ chê bai những người lớn tuổi hơn con cứ như là con biết nhiều hơn và làm tốt hơn họ vậy". Hoàng tử Alexandros trả lời: "Ít ra thì con cũng biết thuần phục con ngựa này chứ không tệ như họ!" Vua cha lại hỏi: "Và nếu Hoàng nhi không thể thu phục được nó, thì con phải làm gì để trả giá cho cái tính bốc đồng" của con. Alexandros không ngại gì:[12]
“ | Con sẽ trả tiền mua con ngựa này, dưới sự chứng dám của thần linh. | ” |
Thế là tất cả mọi người cười phá lên. Alexandros đánh cuộc và chàng chạy đến con thần mã. Chàng nắm lấy dây cương và dắt con ngựa đi theo hướng mặt trời; rõ rằng, chàng nhận ra rằng con thần mã này thường trở nên hoảng sợ khi nhìn thấy cái bóng của chính nó ở phía trước nó. Vì vậy chàng dắt con ngựa đứng yên đối diện với mặt trời rồi dắt nó đi theo hướng này. Mỗi khi con ngựa tỏ vẻ hung hăng hay giận dữ, chàng lại khẽ vuốt ve nó. Bất thình lình, Alexandros nhảy lên lưng con thần mã rồi nhẹ nhàng nhưng cương quyết giật dây cương cho đến khi tất cả vẻ hung dữ biến mất. Rồi chàng ra lệnh cho con Bucephalus phi nước đại, với giọng điệu hùng hồn hơn hẳn.[12]
Vua Philippos II và những người khác đứng xem rất lo lắng cho đến khi nhìn thấy Alexandros chiến thắng trở về. Nhà vua hết sức vui sướng và thỏa mãn, ông mừng đến mức phải rơi lệ. Trong khi đó, tất cả mọi người đều ầm ầm vỗ tay. Người ta nói rằng nhà vua bế Alexandros lên và hôn vào trán của chàng, sau đó ông đặt con xuống và tuyên bố:[12]
“ |
Hỡi con trai của ta con hãy tự tìm cho mình một vương quốc xứng đáng vì Macedonia qua nhỏ bé với con. |
” |
Hầu hết mọi người đều xem Alexandros là một trong số rất ít Hoàng đế thời cổ đại, đã tiếp nhận một nền giáo dục và huận luyện chuyên môn để giữ vai trò thống trị một đế quốc. Dưới sự sắp xếp của người cha, ngay từ năm 13 tuổi ông đã theo học Aristotle, một triết gia nổi tiếng người Hy Lạp.[13] Aristotle đã huấn luyện Alexandros về mọi mặt như thuật hùng biện và văn học và gợi lên các sở thích của cậu ta trong khoa học, y khoa và triết học. Aristotle đưa cho Hoàng tử Alexandros một bản sử thi Iliad của Homer, mà ông luôn giữ và đọc thường xuyên. Theo 10 đại hoàng đế thế giới, Alexandros rất ngưỡng mộ và luôn học hỏi theo sự nghiệp vĩ đại của người anh hùng Achilles thời chiến tranh thành Troia.
Tuổi thơ không êm đềm[sửa]
Alexandros rất say mê nghiên cứu và luyện tập binh pháp. Sách Lịch sử thế giới: Từ 570 triệu năm trước đến 1990 Công nguyên: Trình bày bằng những hình ảnh cụ thể, gọi ông là một người vĩ đại và có nhân cách khác thường.[13] Ông rất yêu thích sự nghiệp và những công tích hiển hách của Hoàng đế Cyrus Đại Đế của Đế quốc Ba Tư cổ đại. Không những thế, hẳn, ông cũng hứng chịu ảnh hưởng rất lớn từ đoạn này trong tác phẩm "Anabasis" của nhà sử học Xenophon:[14]
“ | Nước Ba Tư thuộc về người có ý chí và sức mạnh để chiếm lấy nó. | ” |
Năm 16 tuổi,[13] ông bắt đầu theo cha mình đi chinh chiến, học hỏi các bố trận và làm tướng. Khi Philipos lãnh đạo cuộc tấn công vào Byzantium năm 340 TCN, Alexandros được để lại như là quan chấp chính của Macedonia. Vào năm 339 TCN, Philipos lấy người vợ thứ năm, Cleopatra Eurydice xứ Macedonia. Vì mẹ của Alexandros, Olympias, là người từ Epirus (một vùng đất thuộc phần phía tây của bán đảo Hy Lạp và không phải là một phần của Macedonia), và Cleopatra là một người Macedonia chính gốc, điều này đã dẫn đến tranh cãi về quyền nối ngôi hợp pháp của Alexandros. Attalus, chú của cô dâu, được kể là nâng ly trong tiệc cưới để chúc cho lễ thành hôn sẽ sản sinh ra một người nối ngôi hợp pháp của xứ Macedonia; Alexandros hất cốc rượu vào Attalus nạt lớn:
- Thế thì ta là gì, một đứa con bất hợp pháp à?.
Philipos hiển nhiên đã rút gươm ra và tiến về phía Alexandros, nhưng bị ngã vì quá say. Alexandros nói:
“ |
Đây là người đàn ông dự định chinh phục từ Hy Lạp đến châu Á, và ông ta không thể di chuyển nổi từ bàn này sang bàn khác. |
” |
Alexandros, mẹ và em gái (cũng tên là Cleopatra) sau đó bỏ Macedonia mà ra đi trong cơn giận dữ. Có người bạn cũ đến thăm, vua Philipos hỏi ông ta liệu những người Hy Lạp có thể chung sống hòa binh với nhau không. Vị khách trả lời: Thật lạ lùng, tại sao ngài phải lo lắng về Hy lạp đến thế trong khi gia đình ngài đang tan vỡ vì quá nhiều xung đột?". Philip hiểu ra vấn đề nên triệu Alexandros trở về.
Cuối cùng thì vua cha Philipos giảng hòa với con trai, và Alexandros quay trở lại nhà; Olympias và em gái của ông vẫn ở lại xứ Epirus. Vào năm 338 TCN, trên lưng con thần mã Bucephalus,[15] Alexandros giúp vua cha trong trận quyết định Trận đánh Chaeronea chống lại các thành phố Hy Lạp tự trị Athena và Thebes, cánh do đội kỵ binh dẫn đầu bởi Alexandros đã tiêu diệt Đội thần binh Thebes - một lực lượng tinh nhuệ được xem là bất khả chiến bại. Sau trận đánh, Philipos tổ chức ăn mừng trọng thể, và đáng để ý là Alexandros không tham dự (người ta tin rằng ông đang chăm sóc thương binh và chôn cất liệt sĩ, của Quân đội Macedonia và của kẻ thù). Chiến thắng này đã làm Philipos yêu quý con trai đến mức ông thích nghe các chiến binh gọi Philipos là vị tướng còn Alexandros mới là vị vua của họ. Philipos bằng lòng tước quyền thống trị của Thebes đối với Boeotia và để lại một đội quân đồn trú trong thành. Một vài tháng sau, để gia cố sự thống trị của Macedonia đối với các thành phố Hy Lạp tự trị, Hiệp hội Corinth được thành lập.
Lên ngôi vua Macedonia[sửa]
Vào năm 336 TCN, Philipos bị ám sát tại lễ cưới của con gái ông là Cleopatra của Macedonia với vua Alexandros I của Epirus. Người ta nói rằng, kẻ ám sát là một sủng thần trước đây của nhà vua - một nhà quý tộc trẻ bất mãn Pausanias, ông ta trở nên thù oán vua Philippos II vì nhà vua đã bỏ mặc một lời than phiền mà ông ta đã đưa ra. Người ta cho rằng vụ ám sát Philippos đã được tính toán trước với thông tin và sự tham gia của Alexandros hay Olympias. Một kẻ có khả năng là chủ mưu là Darius III - tân Hoàng đế của Đế quốc Ba Tư khi đó. Nhà sử học Plutarch đề cập đến một lá thư giận dữ từ Alexandros gửi Darius, trong đó ông đổ thừa cho Hoàng đế Darius III và quan Tể tướng Bagoas, cho cái chết của vua cha, nói rằng chính Darius là người đã khoác lác với các thành phố Hy Lạp là ông ta đã tổ chức ám sát Philippos như thế nào. Sau cái chết của Philippos, quân đội suy tôn Alexandros, lúc này 20 tuổi, như là vua mới của Macedonia. Chỉ trong vòng vài tuần sau khi vua cha qua đời, tân vương Alexandros đã nắm vững toàn bộ quyền thống trị Chính phủ và Quân đội Macedonia[16]. Các thành bang Hy Lạp như Athena và Thebes, bị bắt buộc phải quy phục Philippos, thấy vị tân vương như là một cơ hội để giành lại hoàn toàn quyền độc lập của họ. Các bạn hữu và quân sư của nhà vua khuyên ông không nên lập lại quyền thống trị của xứ Macedonia tại Hy Lạp và các bộ tộc man rợ lân cận, trước khi ông đảm bảo sự ổn định nội bộ đất nước và sự trung thành tuyệt đối của toàn dân Macedonia. Do đó, họ khuyên ông không nên suy nghĩ xâu xa gì về ý định chinh phạt Ba Tư của tiên vương Philippos II trong vòng vài năm tới.[16].
Tuy nhiên, nhà vua quyết định không bỏ qua bất kỳ một lãnh thổ nào mà tiên vương khổ công chiếm lấy, hoặc bất kỳ một dự định hay mục tiêu nào của tiên vương. Thoạt đầu, ông quyết định đấu tranh chống cái liên minh hiểm họa vừa được thành lập tại Hy Lạp để chống lại ông. Bấy giờ, ở phía Đông, đất nước đã được phòng vệ vì ít lâu trước khi mất, tiên vương Philippos II đã sai tướng Parmenion kéo 5000 quân tinh nhuệ đến, để chuẩn bị vượt sông Hellespont (Dardanelles) mà đánh Ba Tư. Do đó, nhà vua chỉ chú ý đến phía Bắc và phía Tây đất nước.[16] Ông hành động nhanh chóng và Thebes, là thành phố chống lại ông tích cực nhất, đã đầu hàng khi ông xuất hiện ở cửa thành. Hội đồng Hy Lạp tại Eo Corinth, với ngoại lệ Sparta, bầu ông lên như là Tổng tư lệnh chống lại quân Ba Tư, mà trước đây chức danh này được phong tặng cho cha ông.
Năm kế tiếp, (335 TCN), Alexandros cảm thấy tự do tiến đánh Thracia và Illyria để bảo vệ sông Danube như là biên giới phương bắc của Vương quốc Macedonia. Trong khi ông đang chinh phạt phía bắc một cách thắng lợi, người Thebes và Athena lại nổi dậy một lần nữa. Alexandros phản ứng lập tức và trong khi các thành phố khác lại một lần nữa do dự, Thebes lần này quyết định chống trả cật lực nhất. Sự chống trả là vô ích; cuối cùng, thành phố bị chinh phục với nhiều máu đổ. Người Thebes chịu số phận thê thảm hơn khi thành phố bị đốt trụi và lãnh thổ bị chia ra giữa các thành phố Boeotian khác. Hơn nữa, tất cả các công dân của thành phố bị bán thành nô lệ, chỉ chừa lại các thầy tu, các lãnh tụ của các đảng ủng hộ Macedonia và hậu duệ của Pindar - nhà của người này không bị đụng chạm đến. Kết cục của xứ Thebes làm Athena sợ hãi mà đầu hàng và sẵn sàng chấp nhận yêu sách của Alexandros cho lưu đày các lãnh tụ của phe cánh chống lại Macedonia, Demosthenes là người đầu tiên. Người ta không biết thái độ ôn hòa sau đó của Alexandros đối với người Athena là do lòng thương hại của chàng đối với sự tàn bạo dành cho Thebes hay đơn giản chỉ vì sự khát máu của chàng đã được thỏa mãn. Nhưng kể từ đó, Alexandros luôn đối xử tế đối với bất cứ người Thebes nào sống sót mà chàng gặp.
Ngay sau đó, đại diện của các thành bang Hy Lạp gặp nhau tại Corinth và tôn Alexandros lên làm Minh chủ trong cuộc chiến tranh chống lại quân Ba Tư, nhằm báo thù sự xâm phạm của người Ba Tư vào Hy Lạp năm xưa.[17] Khi Alexandros tới Corinth, nhiều chính khách và nhà triết học đến chúc tụng chàng. Nhà vua cũng chờ nhà triết học nổi tiếng Diogenes của Sinope đến chúc mừng, nhưng Diogenes không đến dù ông này sống ở ngay Corinth.[18]
Vì vậy, đích thân Alexandros đến thăm nhà Diogenes và gặp ông đang nằm tắm nắng. Diogenes hơi nhỏm người dậy khi nghe tiếng đám đông tới gần. Khi Alexandros hỏi triết gia rất nhã nhặn rằng liệu có một đặc ân gì nhà vua có thể làm cho ông không thì Diogenes chỉ nói:" Đức Vua hãy làm ơn bỏ cái bóng của Ngài ra khỏi tôi". Trên đường trở về, những tùy tùng của Alexandros cười nhạo ông già gàn dở này, nhưng Alexandros bảo họ:[18]
“ |
Các Ngươi cứ cười nếu muốn, nhưng nếu Ta không phải là Alexandros thì Ta muốn được làm Diogenes. |
” |
Giai đoạn của các cuộc chinh phạt[sửa]
Sau khi củng cố nền thống trị ở Hy Lạp, ông liền tích cực lo việc thực thi kế hoạch chinh phạt đế quốc Ba Tư Achaemenes mà tiên vương đã soạn thảo, để qua đó cướp đoạt tài nguyên phong phú ở phía đông. Ông vốn rất ngưỡng mộ hai nhà chinh phạt vĩ đại trước thời ông là Nữ hoàng Semiramis của Đế quốc Assyria và Hoàng đế Cyrus Đại Đế của Đế quốc Ba Tư Achaemenes, và quyết định tiến hành chinh phạt châu Á - theo gương họ thành lập một đế quốc hùng mạnh vào thời kỳ cổ đại.[19][20] Lúc bấy giờ, Vương triều Achaemenes của Ba Tư đã suy yếu, nội bộ thường tranh chấp liên miên. Vả lại, Alexandros Đại Đế cũng đã kế thừa từ vua cha một công cụ chiến tranh hiệu quả, đó là một lực lượng Quân đội Macedonia dũng mãnh không gì sánh bằng.[17] Ông nhân cơ hội này mà phát động cuộc viễn chinh, đồng thời, ông cũng dùng cuộc chinh phạt này để chuyển tầm nhìn của những người Hy Lạp chống Macedonia sang hướng khác, và cũng làm hòa dịu cuộc khủng hoảng về kinh tế và chính trị ở các thành bang Hy Lạp.
Rõ ràng, trong việc theo đuổi tham vọng của mình, Alexandros Đại Đế đã phải kế thừa và phát huy di sản mà vua cha để lại. Nếu không có Philippos II - cũng là một vĩ nhân với tầm vóc không kém trong lịch sử, Alexandros Đại Đế sẽ không thể thật lẫy lừng được.[17]
Sự sụp đổ của Đế quốc Ba Tư cổ đại[sửa]
Mùa xuân năm 334 Trước Công Nguyên, Đại Đế Alexandros III thân hành xua đại binh đi đông chinh. Quân tinh nhuệ của ông đã vượt qua eo biển Hellespont với khoảng 42 nghìn binh sĩ - chủ yếu là người Macedonia[21] và Hy Lạp, đa phần là từ các thành phố tự trị phía nam Hy Lạp, nhưng cũng có bao gồm một số người Thracia, Paionia và Illyria. Tương truyền khi đó ông đích thân cầm lái chiếc kỳ hạm của mình, và giết một con bò để hiến tế cho thần biển Poseidon.[1], ông còn dùng một chén vàng đựng rượu mật để cúng thần biển. Khi chiến thuyền cập đến bờ biển bên kia, Alexandros mình mặc võ phục, bước lên đại lục châu Á đầu tiên.[1].Chàng chỉ có 70 talent vàng để trả lương cho binh lính và lương thực chỉ đủ cho 30 ngày. Bản thân Alexandros còn nợ 200 talent vàng nên chàng phải tiêu bất cứ thứ gì chàng có để đảm bảo binh lính có đủ tiền chu cấp cho gia đình. Một viên tướng hỏi chàng muốn giữ lại gì cho bản thân mình, Alexandros trả lời:"Niềm hy vọng của Ta". Viên tướng này sau đó cũng từ chối nhận lương và nói:"Các chiến binh của Bệ Hạ cũng sẽ là bạn của Người trong niềm hy vọng ấy".
Với lòng khao khát và quyết tâm đó, Alexandros và các chiến binh của chàng tiến đến di tích thành Troy ở châu Á. Tại ngôi mộ của danh tướng Achilles, tổ tiên bên họ ngoại của chàng, Alexandros thoa dầu thơm lên bia mộ của Achilles rồi cùng những tùy tùng khỏa thân chạy xung quanh ngôi mộ theo phong tục cổ ở đây. Chàng nói Achilles là một người may mắn vì có một người bạn tri kỉ khi còn sống và một nhà thơ vĩ đại làm cho những ký ức về mình vẫn còn được lưu giữ mãi.
Trong khi đó quân Ba Tư đã cắm trại ở phía bên kia sông Granicus ngăn không cho Alexandros vượt qua. Quân Ba Tư gồm có 2 vạn Bộ binh và 2 vạn Kỵ binh với thế trận rất vững chắc. Dòng sông khá sâu còn bờ sông lại rất cao và dốc đứng. Dường như không thể tấn công được nhưng ngay lập tức Alexandros dẫn đầu 13 toán Kỵ binh vượt sông dưới làn mưa tên. Với sức chịu đựng ghê gớm, họ đã đặt chân lên bờ sông đầy bùn để giáp chiến với kẻ thù.
Ngù lông trắng và bộ giáp sáng chói của Alexandros làm chàng nổi bật trên bãi chiến trường, vì vậy những chiến binh Ba Tư dũng cảm nhất lăn xả vào nơi chàng đứng. Đó là nơi trận chiến diễn ra khốc liệt nhất. Một viên quan Tổng đốc Ba Tư đập rìu chiến vào đầu Alexandros làm chàng choáng váng, nhưng một chiến binh tên là Cleitus đã cứu mạng chàng bằng cách đâm chết kẻ thù trước khi hắn kịp giết chàng.
Trong khi đó, đội hình phương trận của quân Macedonia đã vượt sông và tập hợp lại bên bờ bên kia. Quân Ba Tư không thể chống đỡ sức tấn công của họ nên chả mấy chốc toàn bộ quân Ba Tư đã bỏ chạy thoát thân. Quân Ba Tư mất toàn bộ 2 vạn bộ binh và 2500 kị binh còn Alexandros mất 34 người.
Sau chiến thắng khởi đầu tại Granicus, Alexandros chấp nhận sự đầu hàng của thủ phủ tỉnh Ba Tư và ngân khố của Sardis và tiếp tục tiến xuống bờ biển Ionia. Tại Halicarnassus, Alexandros đã thành công trong việc tổ chức những cuộc bao vây đầu tiên, cuối cùng buộc đối phương, thuyền trưởng đánh thuê Memnon xứ Rhodes và các satrap (thống đốc) Ba Tư của Caria, Orontobates, phải rút lui bằng đường biển. Alexandros trao Caria cho Ada, người từng là nữ hoàng xứ Caria trước khi bị chiếm ngôi bởi người em trai là Pixodarus. Từ Halicarnassus, Alexandros tiến vào vùng núi Lycia và đồng bằng Pamphylia, khẳng định chủ quyền trên tất cả các thành phố ven biển và từ chối quyền đó cho kẻ thù của ông. Từ Pamphylia trở đi, bờ biển không còn cảng lớn nào và do đó Alexandros di chuyển vào trong lục địa. Tại Termessus, Alexandros khiêm tốn nhưng không ập vào thành phố Pisidia. Tại kinh đô cổ đại Phrygia của xứ Gordium, Alexandros "tháo" nút thắt Gordian Knot, một thách thức được nói là chờ cho vị "Vua của cả châu Á" trong tương lai. Theo một câu chuyện sinh động nhất, Alexandros nói rằng không cần biết làm thế nào nút thắt được mở ra, và ông cắt nó bằng thanh gươm. Một dị bản khác nói ông đã không dùng gươm, nhưng thực sự đã tìm ra cách mở nút.
Các chiến binh dũng mãnh của Alexandros băng qua Cổng Cilician, chạm phải và đánh bại quân chủ lực của Ba Tư dưới sự chỉ huy của hoàng đế Darius III trong Trận đánh Issus vào năm 333 TCN. Lúc này vua Darius dẫn 60 vạn quân tinh nhuệ từ Susa tiến đến, khi đó Alexandros vẫn đóng quân tại Cicilia nên Darius và các mưu sĩ thân cận của ông ta cho rằng Alexandros sợ không dám đương đầu với một đội quân khổng lồ. Nhưng thực ra Alexandros trì hoãn là do khi đó chàng phải trải qua một cơn ốm nặng.
Mọi thầy thuốc của Alexandros không dám dùng thuốc chữa vì nếu không chữa được, Alexanrdros sẽ chết và người Macedonia sẽ trừng phạt thầy thuốc. Nhưng có một người tên là Philip ở xứ Acarnania dám mạo hiểm chữa bệnh cho Alexandros. Alexandros nhận được một bức thư từ Parmenio, nói rằng người thầy thuốc này đã phản bội, ông ta nhận tiền của Darius để thay thuốc chữa bệnh bằng thuốc độc. Alexandros đọc lá thư rồi để nó xuống gối và không cho ai biết. Khi Philip mang chén đến, Alexandros lấy bức thư ra đưa cho ông ta. Trong khi Philip đọc, Alexandros mỉm cười uống cạn chén thuốc. Chỉ vài ngày sau, Alexandros đã khỏi bệnh.
Các chiến binh Ba Tư cắm trại trên một vùng đồng bằng rộng lớn nơi họ tận dụng được sức mạnh của Kị binh. Nhưng nhiều tuần trôi qua mà không thấy Alexandros, lúc đó đang hồi phục sức khỏe sau trận ốm, không động binh nên những bầy tôi xu nịnh vua Darius rằng quân Hy Lạp đã quá khiếp sợ không dám giao tranh. Vì thế Darius nên dẫn quân đến Issus để cắt đường rút chạy của Alexandros. Darius dẫn quân đến Issus đúng lúc Alexandros tiến quân vào Syria để đương đầu với ông ta, vì thế cả hai đạo quân đều không gặp nhau. Khi Alexandros biết rằng quân Ba Tư đã vòng phía sau chàng chàng quay lại và thúc quân nhanh chóng đến Issus.
Vua Darius vội vã rút quân ra khỏi Issus khi nhận thấy địa hình gồ ghề khiến kị binh trở nên vô dụng và quân đội của ông ta bị chia tách, còn quân Hy Lạp giành được lợi thế. Nhưng trước khi Darius thoát được cái bẫy của chính mình thì Alexandros đã đến nơi. Alexandros tự mình chỉ huy cánh phải nghiền nát cánh trái của quân Ba Tư. Trong trận này quân Ba tư mất tới 11 vạn người. Còn Darius tháo chạy khỏi trận đánh trong hoảng loạn bỏ lại vợ là Stateira I, hai con gái, mẹ già, và phần lớn của cải cá nhân. Sisygambis, mẹ của hoàng hậu, không bao giờ tha thứ Darius đã bỏ rơi con gái bà. Bà chối bỏ Darius, và Alexandros đã cưới được một con gái của Darius III là Stateira II. Tiến xuống bờ biển Địa Trung Hải, ông lấy được Týros và Gaza sau những trận vây hãm nổi tiếng (xem Vây hãm Týros). Alexandros đi ngang qua gần đó nhưng có lẽ không ghé vào Jerusalem. Một ngày kia, Alexandros bị tụt lại sau đạo quân của mình vì người thầy cũ của chàng là Lysimachos không theo kịp. Đêm đến, Alexandros thấy mình đang ở trong một tình thế nguy hiểm. Khi đó chàng đã đi quá xa đoàn quân và không có lửa để chống lại cái lạnh. Chàng phát hiện có vài lửa trại của kẻ thù gần đó, chạy đến đống lửa gần nhất và giết chết 2 tên lính rồi mang lửa về cho các chiến binh của mình. Đó là tính cách điển hình của Alexandros: luôn cổ vũ những chiến binh bằng hành động và sẵn sàng đương đầu với hiểm nguy.
Trong suốt 7 tháng trước khi thành Týros bị tiêu diệt, Darius viết thư cho Alexandros xin chuộc lại những người bị Alexandros cầm giữ. Darius cũng đề nghị gả cho Alexandros một trong số những người con gái của ông ta nếu Alexandros bằng lòng làm bá chủ toàn bộ các vương quốc phía Tây sông Euphrates. Alexandros kể cho bạn bè nghe chuyện này và hỏi ý kiến họ. Parmenio nói:" Nếu tôi là bệ hạ tôi sẽ vui mừng chấp thuận".
Alexandros đáp:
“ | Nếu là Parmenio thì ta sẽ làm như vậy. Nhưng vì ta là Alexandros nên ta sẽ gửi cho Darius một câu trả lời khác. | ” |
Đây là câu trả lời của Alexandros:" Tất cả châu Á cũng như tất cả những kho báu ở đó là của ta. Số tiền ngươi muốn cống nạp thực ra đã là của ta rồi. Còn con gái ngươi, nếu muốn, ta sẽ cưới, bất kể ngươi đồng ý hay không. Nếu ngươi muốn xin ta điều gì, hãy đến đây một mình. Nếu không, ta sẽ đến chỗ ngươi."
Vào năm 332 TCN – 331 TCN, Alexandros Đại Đế được chào đón như là người giải phóng ở xứ Ai Cập và được công nhận là con trai của Zeus bởi các tu sỹ Ai Cập thờ thần Ammon tại Đền thờ thần ở Ốc đảo Siwa trong sa mạc ở Libya. Từ đó trở về sau, Alexandros nhắc đến thần Zeus-Ammon như là cha thật sự của mình, và sau đó đồng tiền có hình ông với sừng cừu như là chứng minh cho niềm tin phổ biến này. Ông thành lập thành phố Alexandria ở Ai Cập, sau đó trở thành một kinh đô phồn vinh của Triều đại Ptolemy sau khi ông qua đời. Trong lúc đó, Darius III không phải là mối bận tâm duy nhất của ông: có hung tin báo rằng tình hình Âu Châu đang nằm trong rối loạn, do vua xứ Sparta Agis III đã thân hành cầm đầu một liên quân chống Macedonia và đánh tan nát quân Macedonia của quan Tổng đốc quân sự vùng Peloponnesus là Corrhagus. Cuối cùng, Hộ quốc công Antipatros hành binh về thành phố Megalopolis và chiếm lại được thành này sau một trận càn khốc liệt: 3.500 chiến binh Macedonia phải ngã xuống, bên cạnh thi thể của họ là xác của 5.300 tên địch, trong đó có cả Agis III.[22] Cuộc chiến này tuy diễn ra đột ngột, nhưng nó kết thúc trước khi Alexandros Đại Đế đánh thắng quân Ba Tư thêm một trận nữa.[23] Khi tin chiến thắng được báo đến tai ông, Alexandros Đại Đế chẳng vui mừng gì vì ông nghĩ đây là một chiến thắng chẳng có gì nổi bật:[24]
Rời khỏi Ai Cập, Alexandros hành quân về phía đông vào vùng Assyria (bây giờ là bắc Iraq) và chạm trán Darius và đạo quân Ba Tư thứ ba tại Trận Gaugamela. Tiếng náo động và cảnh tượng vô số đống lửa trại bên phía quân châu Á khủng khiếp đến mức một số vị tướng của Alexandros tấn công vào ban đêm vì tấn công một lực lượng khổng lồ như vậy vào ban ngày là quá mạo hiểm. Nhưng Alexandros đáp lại:
“ | Ta không muốn ăn cắp chiến thắng | ” |
Một số người có thể cho rằng câu trả lời này dường như thể hiện sự non nớt và kiêu ngạo, nhưng thực sự đây là một mưu mẹo khôn ngoan. Nếu Darius thua trận này giữa ban ngày, trên chiến trường do ông ta chọn, ông không còn lý do gì để bào chữa cho sự thua kém của mình như trước đó ở Issus. Khi đã hoàn toàn tuyệt vọng ông ta sẽ không còn muốn chống cự nữa. Chiến tranh sẽ kết thúc, dù Darius có thừa tiền bạc và quân lính duy trì một cuộc chiến tranh lâu dài. Đó là lý do Alexandros cho các chiến binh của ông nghỉ ngơi cho đến sáng hôm sau. Khi đi kiểm tra đội hình trước trận đánh, Alexandros cưỡi một con ngựa khác vì con Bucephalus lúc đó đã già. Nhưng khi trận đánh thực bắt đầu, chàng lại leo lên con Bucephalus và bắt đầu tấn công. Ngày hôm đó, Alexandros diễn thuyết rất lâu trước những người Thessaly và những người Hy lạp khác, họ hét vang trả lời chàng. Rồi Alexandros tay trái cầm lao, còn tay phải giơ cao cầu nguyện các vị thần chiến thắng. Ngay lúc đó một con chim ưng bay qua đầu chàng tiến thẳng về phía kẻ thù. Chính điềm báo này làm bừng lên ngọn lửa chiến đấu trong các chiến binh Macedonia. Các đoàn kị binh phi nước đại và tiếp theo là đội hình phalanx. Darius buộc phải bỏ chạy sau khi người lái chiến xa của ông ta bị giết, và Alexandros đuổi theo ông ta xa đến tận Arbela. Trong khi Darius chạy về vùng núi về phía Ecbatana (nay là Hamadan), Alexandros tiến về thành Babylon. Thành phố này đầu hàng ngay lập tức.
Trong lúc vua Alexandros Đại Đế đang chinh chiến chống Đế quốc Ba Tư, Zopyrion lên nắm chức Tổng đốc quân sự xứ Thrace. Zopyrion huy động một đạo quân tinh nhuệ, có lẽ bao gồm 3 vạn chiến binh, đi đánh người Scythia. Zopyrion nhận thấy rằng ông phải ra tay làm một việc gì đó, chứ không thể ngồi không trong khi Đức Vua phải lâm chiến ngoài xa trường.[25] Ông cho vây hãm Olbia nhưng không thành công, và do thời tiết xấu, các chiến binh Macedonia bại trận còn Zopyrion thì hy sinh.[26] Về phần mình, từ Babylon, Alexandros đi đến Susa, một trong những kinh đô của Vương triều Achaemenes, và chiếm được ngân khố quốc gia Ba Tư. Gửi đi toàn bộ quân lính đến Persepolis, kinh đô Ba Tư, bằng Đại lộ Hoàng gia, Alexandros ập vào và chiếm được Cổng Ba Tư (Persian Gate) (vùng nay là Dãy núi Zagros), sau đó đánh vào Persepolis trước khi ngân khố ở đó có thể bị cướp phá. Nhà vua truyền lệnh cho đại quân cướp phá kinh thành Persepolis. Một ngọn lửa lớn bùng cháy ở cung điện phía Đông của Hoàng đế Xerxes I và lan đi khắp thành phố. Theo lời kể của Cleitarchus, Alexandros Đại Đế đã hạ lệnh cho đốt cháy Persepolis do bị cô kỹ nữ xinh đẹp Thais người Athena. Những nhà văn đời sau cũng tin vào câu chuyện này và liên tục kể đến nó, và thậm chí cho đến ngày nay.[27] Cuốn Sách của Arda Wiraz, một tác phẩm Hỏa giáo được viết ra vào thế kỉ thứ 3 hay 4, cũng nói về những thư viện lưu trữ chứa đựng "tất cả Avesta và Zand, được viết trên những tấm da bò đã thuộc, với mực mạ vàng" đã bị thiêu hủy; nhưng những câu như vậy thường bị nghi ngờ bởi các học giả, bởi vì nói chung là người ta nghĩ rằng qua nhiều thế kỉ Avesta chủ yếu được truyền khẩu bởi những người Magia.
Trong số những quà tặng gửi về Hy Lạp, có một số lớn hương trầm và nhựa thơm được gửi tặng Leonidas, người thầy của Alexandros. Lý do của việc này xuất phát là khi Alexandros còn nhỏ, Leonidas đã khuyên Alexandros đừng dùng quá nhiều các gia vị thuộc loại này trong lễ tế các vị thần: " Khi nào con chinh phục được những vương quốc trồng các gia vị này, con có thể dùng thoải mái hơn, nhưng bây giờ đừng lãng phí vì chúng ta chẳng có nhiều". Alexandros gửi kèm món quà với một mảnh giấy viết rằng:" Chúng con gửi thầy rất nhiều hương trầm và nhựa thơm để thầy không còn phải dè sẻn với các vị thần nữa".
Khi trở nên giàu có lòng hào hiệp bẩm sinh của Alexandros càng thể hiện rõ. Thái độ thân ái khi ông ban tặng các món quà càng làm chúng quý giá hơn. Như khi người chiến binh Ariston giết kẻ thù rồi đưa cái đầu vừa chặt được cho Alexandros xem, nói rằng phần thưởng theo phong tục ở nước anh ta là một chiếc cốc vàng. Alexandros mỉm cười nói:
“ | Đúng, nhưng đó là một chiếc cốc rỗng.Còn ở đây là một cái cốc đầy rượu vang và ta hãy uống mừng vì tình bạn và lòng trung thành của ngươi. | ” |
Một lần khác, một chiến binh đang dắt một con la đang chở rất nhiều vàng bạc, châu báu của Alexandros. Vì con la gần kiệt sức không thể đi tiếp nên người chiến binh vác hết số của cải này lên vai. Trông thấy anh ta mệt nhọc lê bước, Alexandros liền hỏi xem điều gì đã xảy ra. Người lính nói rằng con la quá yếu để mang số của cải đó còn anh ta cũng sắp kiệt sức. Alexandros nói:
“ | Đừng bỏ cuộc và hãy cố mang những thứ đó đến lều của ngươi. Tất cả chúng thuộc về ngươi. | ” |
Mẹ của Alexandros là Hoàng Thái hậu Olympias thường viết thư khuyên bảo Alexandros đừng để bạn hữu ông trở nên giàu có đến mức họ cũng trở thành những ông hoàng và có khả năng mua được đoàn tùy tùng cho bản thân, còn Alexandros sẽ nghèo khó và suy yếu vì sự hào phóng này. Alexandros gửi biếu người mẹ thêm nhiều món quà nhưng không bao giờ làm theo lời khuyên của bà. Điều này làm cho Olympias tức giận, còn Alexandros vẫn kiên nhẫn chịu đựng điều này. Khi Antipatros, quan Tổng đốc của ông ở Macedonia, viết một lá thư dài cho Alexandros phàn nàn về Olympias, Alexandros nói với bạn bè:
“ | Antipatros không hiểu rằng một giọt nước mắt của mẹ ta có thể xóa tan 10000 lá thư như thế này. | ” |
Giờ đây, mọi chiến binh đều trở nên giàu có, họ chỉ muốn tận hưởng những thú vui và bắt đầu xao lãng tập luyện. Alexandros nhẹ nhàng nhắc nhở họ, nói rằng ông rất ngạc nhiên khi thấy sau tất cả những trận đánh và những vất vả đã qua, họ không học được rằng những người chịu khó lao động sẽ ngủ ngon hơn và sự xa hoa sẽ dẫn đến ách nô lệ, còn mọi đặc ân đều đi kèm với sự mất mát và cực nhọc. Ông nói:
“ | "Chẳng lẽ các người chưa học được rằng vinh quang và sự hoàn hảo trong thắng lợi của chúng ta gồm cả việc tránh xa những điều xấu, những điều làm cho kẻ thù của chúng ta dễ bị đánh bại." | ” |
Alexandros đặc biệt lo ngại việc binh lính lười luyện tập. Ông nói rằng không thể xứng đáng là một chiến binh nếu không quan tâm đến những thứ gần gũi nhất, tức là cơ thể con người, dù có một bộ giáp sáng chói hay một con ngựa hay. Alexandros thể hiện sự gương mẫu của mình. Ông đi săn sư tử chứ không muốn nghỉ ngơi hưởng thụ những nhàn hạ. Nhưng những chiến binh của ông giờ đây đã trở nên kiêu ngạo vì giàu có. Những cuộc chiến tranh và những cuộc hành quân đã làm họ mỏi mệt nên họ nói xấu vị vua của mình. Thoạt đầu, Alexandros rất kiên nhẫn với họ. Ông nói rằng làm vua phải làm điều tốt cho mọi người, dù ông ta có bị chê trách.
Vào năm 330 trước Công Nguyên, nhà vua viếng thăm lăng mộ của Cyrus Đại Đế.[28] Ông luôn muốn mình được làm vị vua kế tục đích thực của Cyrus Đại Đế năm xưa.[29] Rồi cũng đến lúc phải truy tìm Darius. Sau khi vượt qua 400 dặm trong 11 ngày đường, Alexandros và binh lính của ông gần chết khát. Một số quân do thám người Macedonia đã đem về một ít túi nước từ một dòng sông cách đó khá xa và mang cho Alexandros một chiếc mũ đầy nước. Mặc dù miệng khô đến mức sắp nghẹt thở, Alexandros cũng từ chối và nói:
“ | " Chỗ này không đủ cho tất cả mọi người nên nếu ta uống thì sẽ có những người khác phải chết." | ” |
. Khi nhìn thấy cảnh này, các chiến binh thúc ngựa lên phía trước hét lên rằng họ muốn Alexandros dẫn dắt họ. Họ nói rằng với một vị vua như thế, họ sẽ vượt qua bất kì khó khăn nào. Ông cũng đuổi theo và bắt được vua Darius III, ông ta sau bị giết bởi những cận thần của quan Tổng đốc xứ Bactria là Bessus - một người bà con của ông ta, Alexandros cởi áo choàng của mình và đắp cho Darius và chân thành than khóc cho cái chết bất hạnh của ông ta. Quan Tổng đốc Bessus sau đó tự tấn phong mình là Hoàng đế Artaxerxes V - vua kế tục của Hoàng đế Darius III - và rút lui vào vùng Trung Á để tiến hành chiến tranh du kích đánh lại vua Alexandros Đại Đế. Với cái chết của Darius, Alexandros tuyên bố cuộc chiến trả thù đã chấm dứt, và giải thể quân Hy Lạp và các đồng minh khác trong chiến dịch Đồng minh (mặc dù ông cho phép những ai muốn thì tái đăng kí như là lính đánh thuê trong Quân đội Macedonia của ông).
Chiến dịch ba năm của Alexandros ban đầu là chống lại Darius và sau đó là các satrap (thống đốc) của các vùng Sogdiana, Spitamenes, đã đưa ông qua các vùng Media, Parthia, Aria, Drangiana, Arachosia, Bactria và Scythia.[30] Trong quá trình đó, ông chiếm được và tái thiết lập Herat và Maracanda. Hơn nữa, ông lập ra một chuỗi các thành phố mới, tất cả đều gọi là Alexandria, bao gồm cả Kandahar ngày nay ở Afghanistan, và Alexandria Eschate ("Xa nhất") ở vùng nay là Tajikistan. Vào năm 329 TCN, Spitamenes làm phản Bessus (không rõ Spitamenes giữ chức vụ gì ở tỉnh Sogdiana?). Spitamenes nộp Bessus cho Ptolemaios, một trong những cận tướng của vua Alexandros Đại Đế, và Bessus bị hành quyết.[31]. Alexandros cho quân dừng lại tại Parthia. Đây là lần đầu tiên Alexandros khoác những bộ quần áo của người châu Á rồi trò chuyện với họ. Hy vọng bằng cách này ông sẽ lôi kéo họ theo mình. Nhưng sau đó ông vẫn giữ nguyên trang phục này khi đứng trước đội quân của mình. Điều này làm các chiến binh tức giận nhưng rồi họ cũng chiều theo tính lập dị của vị thủ lĩnh dũng cảm.
Hephaetion là người bạn tán thành việc Alexandros sống theo phong tục xa lạ này nhất và cũng bắt trước những thay đổi của Alexandros. Còn Crateros, một người bạn khác, vẫn gắn bó với phong tục của người Macedonia. Alexandros dùng Hephaetion để giao thiệp với người châu Á và dùng Crateros giao thiệp với người Hy lạp. Ông bày tỏ nhiều tình thân thiện đối với Hephaetion, người được ông gọi là " bằng hữu của Alexandros" và bày tỏ sự tôn trọng đối với Crateros, người được ông gọi là " cố vấn của nhà vua". Nhưng hai người này luôn luôn có ác cảm với nhau, đôi khi còn cãi cọ trước mặt quân lính.
Tuy nhiên, về sau này, khi ông cùng ba quân đang chinh chiến bên sông Jaxartes, Spitamenes làm loạn tại Sogdiana. Trước sự quấy nhiễu của người Scythia tinh nhuệ, nhà vua thân chinh đánh tan tác người Scythia trong trận Jaxartes vào năm 329 TCN.[32] Người Scythia tan vỡ, tháo chạy, bãi chiến trường chất hàng ngàn cái thây của người Scythia, trong số đó có vị thủ lĩnh tài ba Satraces.[33] Sau đó, nhà vua trao trả tù binh và đối xử tốt với dân tộc này. Trước chiến thắng oanh liệt của ông, ngay cả Hoàng đế Darius I cũng bị người Scythia đánh bại vào năm 513 TCN.[34] Người Scythia vốn xưa nay là một dân tộc bách chiến bách thắng, và thất bại ê chề của họ trở thành một biểu hiện cho thấy tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải thần phục Vương quốc Macedonia.[35] Giờ đây, cái dân tộc từng đánh bại Hoàng đế Cyrus Đại Đế này đã phải nhận thức rằng xứ Macedonia vô cùng hùng mạnh.[8]
Người Scythia thất bại thảm hại, vua Alexandros Đại Đế mới tiến đánh Spitamenes,[36] ông giành chiến thắng trong trận Gabai; sau chiến bại này, Spitamenes bị binh lính giết hại, vì họ sẵn sàng làm hòa với nhà vua xứ Macedonia.[37] Có câu chuyện kể rằng chính cô vợ của Spitamenes đã chặt đầu ông ta và mang cái đầu ông ta đến trại quân của nhà vua, và ông hoảng hồn nhận lấy nó.[38]
Những âm mưu chống đối Alexandros[sửa]
Trong thời gian này, Đại Đế Alexandros III cho phổ biến một số loại áo quần và phong tục Ba Tư trong triều đình của ông, đáng chú ý là phong tục proskynesis, một cách hôn tay tượng trưng mà người Ba Tư thường làm để tỏ lòng kính trọng với những người có địa vị xã hội cao hơn, nhưng phong tục này không được người Hy Lạp chấp thuận. Những người Hy Lạp cho là cử chỉ này được dành riêng cho các thần linh và tin rằng Đại Đế Alexandros III tự thần thánh hóa chính ông bằng cách yêu cầu cử chỉ đó. Điều này đã làm giảm sút đáng kể sự yêu quý của những người Hy Lạp đối với vị vua trẻ tuổi. Nơi này cũng diễn ra một vụ mưu sát ông nhưng bị bại lộ, và một trong những viên Sĩ quan Quân đội Macedonia, Philotas, bị xử tử vì tội phản bội vì đã không báo lên âm mưu đó kịp thời. Lão tướng Parmenion, cha của Philotas, người là đứng đầu một quân đoàn tại Ecbatana, bị ám sát theo lệnh của Đại Đế Alexandros III, do nhà vua sợ rằng Parmenion có thể trả thù cho con trai. Một số cuộc xử án khác về tội "phản nghịch" theo sau đó, và nhiều người Macedonia bị xử tử. Sau đó, trong một trận cãi nhau lúc say rượu tại Maracanda, ông cũng giết một người đàn ông đã cứu sống ông tại Granicus, Clitus Đen. Sau đó trong chiến dịch Trung Á, một vụ mưu sát Alexandros thứ hai được khám phá, lần này là bởi những người hầu cận của ông, và sử gia chính thức của ông, Callisthenes xứ Olynthus (người đã bị thất sủng vì đã dẫn đầu trong việc chống lại việc giới thiệu phong tục proskynesis), bị xử là liên đới chủ mưu và nhiều sử gia cho rằng đây là những vu cáo. Tuy nhiên, các chứng cứ khá rõ là Callisthenes, thầy của các người hầu cận, phải là người dụ dỗ họ ám sát nhà vua.
Cuộc chinh phạt Ấn Độ[sửa]
Sau cái chết của Spitamenes và đám cưới của ông với Roxana xứ Bactria (Roshanak trong tiếng Bactria) để củng cố quan hệ mới thiết lập với các tiểu vương vùng Trung Á, vào năm 326 TCN Alexandros cuối cùng rảnh tay để quay sự chú ý về phía Ấn Độ. Nay, Alexandros cho mời tất cả các thủ lĩnh của vùng trước là tiểu vương quốc xứ Gandhara, về phía bắc của vùng nay là Pakistan, đến gặp ông và chấp nhận đầu hàng. Ambhi, người cai trị xứ Taxila, với vương quốc trải dài từ sông Ấn đến tận Hydaspes (sông Jhelum), tuân theo. Nhưng thủ lĩnh của một số bộ tộc vùng cao bao gồm các phần Aspasios và Assakenois của Kambojas (tên cổ), được biết trong sử sách Ấn Độ như là Ashvayana và Ashvakayana (những cái tên chỉ bản chất cưỡi ngựa của họ), từ chối không đầu hàng.
Alexandros thân chinh thống lĩnh lính cầm khiên, bộ binh, lính bắn cung người Agriania và lính cưỡi ngựa phóng lao tấn công bộ lạc Kamboja -- người Aspasios của Thung lũng Kunar/Alishang, người Guraean của Thung lũng Guraeus (Panjkora), và người Assakenois ở Thung lũng Swat và Buner.[39] Một trận đánh khốc liệt với người Aspasios và chính Alexandros bị trọng thương nơi vai vì trúng lao nhưng cuối cùng người Aspasios thua trận; 40.000 người của họ bị bán thành nô lệ. Người Assakenois đối đầu Alexandros với quân đội bao gồm 30.000 kị binh, 38.000 bộ binh và 30 voi[40]. Họ đã chiến đấu dũng cảm và kháng cự ngoan cường chống lại quân xâm lược trong nhiều địa điểm cố thủ ở các thành phố Ora, Bazira và Massaga. Đồn Massaga chỉ bị hạ sau nhiều ngày đánh nhau đẫm máu và chính Alexandros bị thương ở cổ chân. Khi thủ lĩnh của Massaga ngã xuống trên chiến trường, quyền tổng tư lệnh vào tay bà mẹ già của ông ta là Cleophis (q.v.) người cũng cương quyết bảo vệ đất mẹ đến hơi thở cuối cùng. Việc Cleophis giữ quyền tổng chỉ huy quân đội đã đưa toàn bộ lực lượng phụ nữ địa phương vào chiến trận[41]. Alexandros chỉ có thể hạ được Massaga bằng cách sử dụng các âm mưu chính trị và nội phản. Theo như Curtius:[42]
“ |
Vua Alexandros không chỉ thảm sát toàn bộ dân thành Massaga, nhưng ông ta còn phá hủy các tòa nhà thành những đống đổ nát. |
” |
Một cuộc thảm sát tương tự diễn ra tại Ora, một địa điểm phòng thủ khác của người Assakenois.
Sau những cuộc thảm sát và đốt phá bởi Alexandros ở Massaga và Ora, rất nhiều người Assakenois chạy lên một đồn cao gọi là Aornos. Alexandros đuổi sát theo họ và chiếm được đồn trên đồi cao nhưng chỉ sau bốn ngày đánh nhau ác liệt. Câu chuyện của Massaga được lặp lại ở Aornos và sự tàn sát người bộ lạc diễn ra tương tự sau đó.
Viết về chiến dịch của vua Alexandros chống lại người Assakenois, Victor Hanson nhận xét:
“ |
Sau khi hứa hẹn những người Assacenis xung quanh rằng họ sẽ được tha mạng khi bị bắt, ông xử tử tất cả lính đã đầu hàng. Các điểm phòng thủ của họ ở Ora và Aornus cũng bị đánh ập vào. Các quân đoàn đóng trong đó có lẽ đều bị thảm sát. |
” |
Sisikottos, người đã giúp vua Alexandros Đại Đế trong chiến dịch này, được phong làm thống đốc của Aornos.
Sau khi hạ được Aornos, vua Alexandros Đại Đế băng qua sông Ấn và đánh tan tác quân của Porus, vua của xứ đó trong vùng Punjab trong trận thắng lịch sử tại Hydaspes vào năm 326 TCN. Tuy vua Porus sử dụng những đội tượng binh dũng mãnh, Quân đội Macedonia giành thắng lợi nhờ có lòng dũng cảm, tinh thần kỷ cương cao và những chiến thuật tài tình của vua Alexandros Đại Đế.[44] Có người kể rằng, trong cuộc đại chiến này, con thần mã Bucephalus hy sinh khi trúng tên của con trai của Porus - chính tay này cũng làm cho Alexandros Đại Đế bị thương. Tuy nhiên, có tư liệu kể ràng con thần mã chết do nó đã già và phải chịu nóng nực. Theo trước tác của Plutarchus, Bucephalus chết ít lâu khi các chiến binh tinh nhuệ Macedonia đại phá tan nát được hùng binh mãnh tướng của Porus. Alexandros Đại Đế hết sức đau buồn, ông nghĩ rằng tổn thất này chẳng khác gì sự mất đi một binh sĩ trung thành, một người bạn hữu của mình.[45] Theo sử sách, ông bắt được vua Porus làm tù binh, và sau chiến thắng vang dội ông hỏi vua Porus muốn đối xử như thế nào. Vị vua thất thế đáp lại:[46]
“ | Này Alexandros, xin hãy đối xử với tôi như với một vị Quân vương. | ” |
Vua Alexandros Đại Đế chưa từng gặp phải một kẻ thù nào đáng phục hơn thế. Do đó, ông cho phép vua Porus được giữ vững Vương quốc của ông ta, không những thế vua Porus còn trở thành một đồng minh thân cận của ông. Ông hòa giải hai ông vua thù địch nhau là Porus và Taxiles, đồng thời giao cho họ cai quản các vùng đất lân cận. Cả hai vị vua này đều trở nên hùng mạnh như nhau. Cách ông đối đãi với vua Porus và Taxiles chứng tỏ ông muốn có thêm những đồng minh hung mạnh va đáng tin cậy.[46] Alexandros đặt tên cho một trong hai thành phố mới mà ông tìm được là Bucephala, nhằm tôn vinh con thần mã dũng mãnh Bucephalus của ông.[47] Sau đó ông cũng tiến hành lễ tang trọng thể cho những liệt sĩ Macedonia cùng với những liệt sĩ quả cảm nhất của quân thù.[45] Nhà vua đặt tên cho thành phố kia là Nicaea (Khải hoàn), ngày nay là vùng Mong.[48][49] Alexandros tiếp tục chinh phục toàn bộ vùng thượng nguồn sông Ấn.
Phía Đông của vương quốc Porus, gần sông Hằng, là đế chế hùng mạnh Magadha (tức là Ma-kiệt-đà) dưới sự cai trị của Triều đại Nanda. Lo sợ về khả năng phải đối mặt với một đội quân Ấn Độ hùng mạnh khác nữa và kiệt sức bởi nhiều năm chinh chiến, quân đội của ông nổi loạn ở sông Hyphasis (nay là Beas), không muốn chiến đấu tiếp nữa:
“ |
Về phần người dân Macedonia, dẫu sao, cuộc chiến với Porus làm mài mòn lòng dũng cảm của họ và ngăn cản họ tiến xa hơn vào Ấn Độ. Thay vì làm tất cả những gì có thể để đẩy lùi kẻ thù với quân số chỉ có 20000 bộ binh và 2000 chiến mã, họ lại kịch liệt chống lại Alexandros khi ông khăng khăng đòi vượt qua sông Hằng, mà họ biết rộng 32 Fulông, sâu 100 sải, trong khi các nhánh sông phía bên kia được mai phục bởi vô số bộ binh, kỵ sĩ và voi. Họ được báo rằng các vị vua của Ganderites và Praesii đang đợi họ với 80000 kỵ sĩ, 200000 lính đánh bộ, 8000 xe ngựa và 6000 voi thiện chiến. Theo Plutarch, Vita Alexandri, 62 [50] |
” |
Vua Alexandros Đại Đế, sau khi bàn bạc với quân sư Coenus, bị thuyết phục quay trở lại. Ông buộc phải trở về phía nam. Ông gửi phần lớn quân đến Carmania (hiện thuộc phía nam Iran) với tướng Craterus, và giao nhiệm vụ thăm dò vịnh Ba Tư dưới quyền của đô đốc Nearchus, trong khi ông dẫn đoàn quân còn lại về bằng con đường phía nam qua Gedrosia (ngày nay là Makran phía nam Pakistan). Theo huyền sử cổ xưa, Quân đội Assyria do Nữ hoàng Semiramis thân chinh cầm đầu và Quân đội Ba Tư Achaemenes do Hoàng đế Cyrus Đại Đế (có lẽ còn gọi là Kay Khosrow) thân chinh thống lĩnh đều chịu tổn thất thảm hại ghi đi qua hoang mạc Madran - một nơi khét tiếng là có địa thế hết sức khó khăn. Khi thoát khỏi đây, Nữ hoàng Semiramis chỉ còn có 20 binh sĩ, và Hoàng đế Cyrus Đại Đế chỉ còn có bảy binh sĩ.[51][52] Nay, vua Alexandros Đại Đế biết ông đã lâm vào nguy hiểm, nhưng ông quyết định tiến hành hành quân qua Makran để vượt trội hơn cả những chiến công hiển hách của hai nhà chinh phạt lỗi lạc trước thời ông là Nữ hoàng Semiramis và Hoàng đế Cyrus Đại Đế.[20][53][54][55]
Sau Ấn Độ[sửa]
Khi ở Ấn Độ, Alexandros mang theo 10 người Bà la môn trong số những tù binh bị bắt. Họ là những người đã kích động bộ tộc Sabba chống lại ông. Đây là những người nổi tiếng thông minh nên Alexandros quyết định thử thách trí thông minh của họ. Ông tuyên bố người nào có câu trả lời kém nhất sẽ bị giết đầu tiên và sai người già nhất làm trọng tài.
Alexandros hỏi người đầu tiên: " Người sống nhiều hơn hay người chết nhiều hơn?". Người này trả lời:" Người sống bởi vì người chết không còn đếm được nữa". Alexandros hỏi người thứ hai:" biển hay đất liền có nhiều sinh vật hơn?".câu trả lời là:" Đất liền, bởi vì biển chỉ là một phần của đất". Alexandros hỏi người thứ ba:" Con vật nào thông minh nhât?". Người này trả lời:" Đó là con vật chúng ta chưa tìm ra". Alexandros hỏi người thứ tư:"Để thúc giục người Sabba nổi dậy cần lý lẽ nào?". và ông ta trả lời" Một người hoặc phải sống hào hiệp hoặc phải chết cao thượng". Alexandros hỏi người thứ năm:" Đêm có trước hay ngày có trước?", câu trả lời là " Ngày có trước đêm ít nhất một ngày". Khi ấy thấy Alexandros có vẻ không hài lòng với câu trả lời, ông ta nói thêm:" Những câu hỏi lạ lùng thì sẽ có những câu trả lời lạ lùng". Alexandros hỏi người thứ sáu: Người ta phải làm gì để được yêu quý?". " Hãy mạnh mẽ đừng khiếp sợ bản thâm". Alexandros hỏi người thứ bảy:" Con người phải làm gì để trở thành vị thần"; " hãy làm những gì con người không thể làm được". Alexandros hỏi người thứ tám:" Cuộc sống hay cái chết mạnh hơn?"." Cuộc sống mạnh hơn cái chết vì phải chịu nhiều nỗi bất hạnh hơn". Người thứ chín được hỏi:"Con người nên sống bao nhiêu lâu". Ông ta trả lời:" Cho đến khi chết là tốt nhất". Rồi Alexandros quay sang giám khảo, ông ta trả lời rằng bất kì ai cũng trả lời tồi hơn một người khác. Alexandros nói:"Vậy thì ngươi phải chết đầu tiên vì đưa ra lời phán quyết đó.". Ông ta đáp lại: " Không thể như vậy, thưa đức vua tối cao, nếu ngài còn muốn là một người giữ lời. Ngài đã nói rằng chỉ giết ai có câu trả lời tệ nhất kia mà.". Alexandros trả tự do cho họ và tặng quà cho những người Bà la môn.
Phát hiện rằng rất nhiều phó vương và thủ lĩnh các đội quân của ông cư xử không đứng đắn khi ông vắng mặt, Alexandros cho hành hình rất nhiều người trong số họ làm gương trên đường đến Susa. Để biểu lộ thiện chí, ông ban thưởng cho binh lính và thông báo rằng ông sẽ gửi những người lính già và tàn tật về Macedonia dưới quyền của Craterus, nhưng quân đội hiểu nhầm ý định của ông và nổi dậy ở thị trấn của Opis, từ chối bị gửi đi và chỉ trích cay độc việc chấp nhận phong tục, trang phục của người Ba Tư và sự gia nhập của lính Ba Tư vào đoàn quân Macedonia. Alexandros cho hành quyết những kẻ cầm đầu cuộc nổi loạn, nhưng tha tội cho binh lính. Với dự định thiết lập mối giao hảo lâu dài giữa những người Macedonia và người Ba Tư, ông tổ chức hàng loạt hôn lễ giữa các sĩ quan của ông và người Ba Tư và cả những phụ nữ quý tộc Susa, nhưng rất hiếm cuộc hôn nhân nào kéo dài được hơn 1 năm.
Nỗ lực nhằm hòa hợp nền văn hóa Ba Tư với những người lính Hy Lạp của ông còn thể hiện ở việc huấn luyện một đội quận gồm những chàng trai Ba Tư theo cách của người Macedonia. Không có ghi chép chắc chắn về việc Alexandros chấp nhận cách gọi vua của người Ba Tư la Shahenshah (tức "Hoàng đế vĩ đại" hay "Vua của các vị vua"). Tuy nhiên, hầu hết các sử gia đều tin rằng ông đã chấp nhận việc đó.
Có giả thiết là Alexandros đã muốn xâm chiếm hoặc nhập với bán đảo Ả Rập, nhưng giả thiết này vẫn còn đang được tranh cãi. Có người cho rằng Alexandros đã tiến về phía tây và tấn công Carthage và Ý thay vì chiếm Ả Rập.
Qua đời[sửa]
Sau hành trình đến Ecbatana để lấy lại phần lớn của cải của Ba Tư, người bạn thân nhất và được ông yêu mến, tên là Hephaeistion đã qua đời vì bệnh tật. Alexandros đã quẫn trí, mắc bệnh và qua đời trên đường trở về tại cung điện của vua Nebuchadrezzar II, Babylon vào 10 tháng 6, 323 TCN. Khi đó, ông mới 33 tuổi.[13] Vài tháng trước khi mất, ông tập trung lực lượng để chuẩn bị mở mang bờ cõi. Quân sĩ Macedonia đã quá chán vào sinh ra tử để phục vụ cho giấc mộng bá chủ hoàn cầu của vua, nên đã nổi loạn. Trong cuộc loạn đó, họ đã hô những khẩu hiệu như:
- Ông muốn đi chinh phạt thêm thì cứ việc! Nhưng khỏi kêu bọn tôi! Chỉ mình ông và cha ông là thần Amon cũng đủ!.[56]
Điều này cho thấy dù Alexandros đã xa Ai cập lâu ngày nhưng vẫn thường xuyên nói mình là con của thần Amon xứ Ai Cập.
Theo nhà sử học quân sự người Mỹ Trevor Nevitt Dupuy, các nhà sử học coi vua Alexandros Đại Đế là một vị Đại Danh tướng (Great Captain) trong lịch sử, cùng với thống soái Hannibal xứ Carthage, nhà độc tài Julius Caesar thành La Mã, nhà chinh phạt Thành Cát Tư Hãn người Mông Cổ, vua Gustav II Adolf nước Thụy Điển, vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ và Hoàng đế Napoléon Bonaparte nước Pháp. Cũng theo Dupuy, ông có thể là vị Đại Danh tướng đầu tiên, và vĩ đại nhất trong số đó.[57] Xem ra trên trận tiền, ông bị thương nhiều hơn mọi vị Đại Danh tướng khác.[58] Không những là một nhà chinh phạt liều lĩnh,[59] ông vừa là chiến binh mà cũng vừa là chính khách trong cùng lúc, cũng như nhiều ông vua nổi tiếng khác trong lịch sử châu Âu.[60]
Người kế vị[sửa]
- Xem chi tiết: Philipos III của Macedonia
Sau khi ông qua đời, Alexandros được kế vị bởi một người anh khác mẹ của ông, Philipos III Arrhidaeus (khoảng 359 TCN-317 TCN). Vài tuần sau đó, Roxana sinh hạ một người con trai, cũng mang tên Alexandros, cũng được lên ngôi, Alexandros IV. Nhưng, các vua này chỉ ở ngôi lấy vì, còn đế quốc đã bị các vị tướng lãnh hàng đầu phân chia.[13]
Năm 306 TCN, sau khi Hoàng gia Macedonia bị tiêu diệt, tướng Antigonus xưng vương, khiến cho các tướng khác noi theo. Năm 305 TCN Ptolemy khởi lập nhà Ptolemy ở Ai Cập, Cassander lên ngôi vua Macedonia trong khi Seleucus sáng lập nhà Seleukos ở Syria, Iran, Iraq, Afghanistan và các vùng đất phụ cận.
Sau khi vua cha Antigonus qua đời, vua Demetrios I lên kế thừa ngôi báu Macedonia. Ông này phải lâm chiến với vua xứ Ipiros là Pyrros - được xem là hậu duệ của vị anh hùng Achilles.[61] Tuy ông vua nhà binh Pyrros đại phá quân Macedonia, các chiến binh Macedonia không những không căm thù ông này, trái lại còn rất thán phục Pyrros vì theo Plutarch, Pyrros không khác già Alexandros Đại Đế. Trong thời đại Hy Lạp hóa, các vị vua đều xưng những vương hiệu hoành tráng, thân chinh thống lĩnh những chiến binh tinh nhuệ và lập nên một đội cận vệ uy dũng để bắt chước Alexandros, nhưng chỉ có thiên tài quân sự của Pyrros mới đạt đến tầm vóc của ông. Và rồi, theo Plutarch, một đêm kia, vua Pyrros chiêm bao thấy mình được cố vương Alexandros Đại Đế triệu đến bái kiến, và khi tới, Pyrros chợt thấy vị cố vương lừng lẫy một thời đang nằm ốm trên giường bệnh. Ông nhiệt liệt hoan nghênh và tán dương Pyrros, thậm chí còn hứa rằng sẽ hỗ trợ cho vị vua trẻ tuổi. Sau đó, vua Pyrros đánh bạo, hỏi lại ông: "Thưa Thánh thượng, Người đang nằm ốm thế này thì giúp con bằng cách nào đây?" Ông bèn đáp: "Chỉ với cái tên của Trẫm". Không những thế, ông còn bất ngờ đứng dậy, lên lưng chiến mã Nisea và phi ngựa tiến thẳng lên phía trước Pyrros để dẫn dắt ông vua nhà binh trẻ tuổi xung phong trận mạc.[62]
Đời tư[sửa]
Trên lưng con thần mã Bucephalus, Alexandros Đại Đế đánh đâu cũng thắng.[45] Ngoài ra, sự gắn bó sâu sắc nhất về tình cảm của ông hầu như được cho là đối với người đồng hữu, người chỉ huy đội kị binh (chiliarchos) và là người bạn từ thời thơ ấu của ông, Hephaestion. Ông học cùng Alexandros, như một nhóm trẻ em con nhà quý tộc khác ở Macedonia, dưới sự dạy dỗ của Aristotle. Hephaestion đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên trong lịch sử của mình vào thời điểm Alexandros tiến đến Troia. Tại đây hai người bạn đã đặt vòng hoa tại các đền thờ của hai vị anh hùng Achilles và Patroclus năm xưa; Alexandros Đại Đế tại đền thờ Achilles, và Hephaestion tại đền thờ Patroclus. Aelian trong cuốn Varia Historia (12.7) khẳng định rằng Hephaestion "tiết lộ ông là eromenos ["người tình"] của Alexandros, như Patroclus đối với Achilles vậy." Có lẽ Olympias cũng đã từng cổ võ cho Alexandros Đại Đế hãnh diện vì ông là hậu duệ của vị anh hùng Achilles này.[63]
Một số nhà sử học đã đặt nghi vấn về khẳng định về mối quan hệ đồng tính giữa Alexandros và Hephaestion. Robin Lane Fox viết rằng tuy "những lượm lặt gần đây nhất cho khẳng định rằng vua Alexandros Đại Đế có mối quan hệ yêu đương với Hephaiston", không có văn kiện lịch sử đương thời nào nói về vấn đề này. Tuy nhiên, Fox nói thêm, "sự thực là tình bạn của hai người đàn ông này sâu sắc và thân thiết một cách khác thường." [64] Vì cái chết của Hephaestion, Alexandros khóc thương cho ông ta rất nhiều, và không ăn uống gì trong mấy ngày liền. Nỗi buồn của nhà vua khi đó rất giống với cơn đau buồn của Achilles sau khi Patroclus hy sinh trên trận tiền.[65]
Cũng có một số nhà khoa học của Mỹ cho rằng, Alexander Đại đế chết vì một loại vi khuẩn cực độc khiến cho ông luôn luôn đau nhức mỗi khi ra trận. Trước khi qua đời khoảng 14 ngày, Alexander Đại đế lên cơn sốt cao, bị đau các khớp xương. Rồi sau một hồi quằn quại và co giật dữ dội, ông cũng không thoát khỏi cái chết đang ngày một cận kề.
Danh ngôn[sửa]
- Địch quân trong một thời gian dài vừa qua, luôn sống trong hoàn cảnh thái bình hưởng lạc, còn chúng ta thì luôn luôn chiến đấu và đã vượt qua không biết bao nhiêu thử thách gian nguy, mỗi chiến sĩ đều được luyện rèn nên đã trở thành kiên cường hơn. Một điều quan trọng nữa, đó là trận đánh này chính là một trận quyết đấu giữa người tự do và người nô lệ. Số người đi theo Darius để đánh giặc đều là những người vì tiền mà bán mạng cho ông ta. Trong khi quân đội của ta đều là chí nguyện quân chiến đấu vì đất nước Hy Lạp, là những chiến sĩ dũng cảm thiện chiến nhất ở Á châu. Chỗ yếu kém nhất của quân địch là ô hợp và không có tài năng. (lời nói trước tướng sĩ trong trận Issus)[1]
Chú thích[sửa]
- ↑ 1,0 1,1 1,2 1,3 Khảo cổ học - Viện khảo cổ học, ̉Uy ban khoa học xã hội Việt Nam, 1984 - trang 69
- ↑ Cái tên Αλέξανδρος bắt nguồn từ các từ άλεξ (bảo vệ) và άνδρας (người) trong tiếng Hy Lạp
- ↑ Michael Burgan, Alexander the Great: World Conqueror, trang 13
- ↑ “Alexander the Great (356 - 323 BC)”.
- ↑ Yenne 2010
- ↑ Một việc Alexandros phải lặp lại hai lần vì các miền phía nam Hy Lạp nổi loạn sau khi Philipos qua đời
- ↑ Grigori Sidorov, Arturo Hernández Aguirre, Carlos Alberto Reyes Garcia, Advances in Soft Computing: 9th Mexican International Conference on Artificial Intelligence, Micai 2010, Pachuca, Mexico, November 8-13, 2010, Proceedings, Phần 2, trang 14
- ↑ 8,0 8,1 William Haig Miller, James Macaulay, William Stevens, The Leisure hour, trang 648
- ↑ Juan Eduardo Campo, Encyclopedia of Islam, trang 30
- ↑ Plutarch, John Langhorne, William Langhorne, Plutarch's Lives, Tập 2, trang 211
- ↑ 11,0 11,1 11,2 11,3 11,4 11,5 Plutarch, Judith Mossman, Lives of the noble Grecians and Romans, các trang 385-391.
- ↑ 12,0 12,1 12,2 12,3 Waldemar Heckel, John Yardley, Alexander the Great: historical texts in translation, các trang 45-47.
- ↑ 13,0 13,1 13,2 13,3 13,4 Bùi Đức Tịnh (biên dịch), sách đã dẫn, trang 76
- ↑ Trevor Nevitt Dupuy, The military life of Alexander the Great of Macedon, trang 9
- ↑ Trevor Nevitt Dupuy, The military life of Alexander the Great of Macedon, trang 9
- ↑ 16,0 16,1 16,2 Trevor Nevitt Dupuy, The military life of Alexander the Great of Macedon, trang 2
- ↑ 17,0 17,1 17,2 Ulrich Wilcken, Alexander the Great, trang 4
- ↑ 18,0 18,1 Plutarch, Judith Mossman, Lives of the noble Grecians and Romans, trang 397
- ↑ Samuel Willard Crompton, Alexander the Great, trang 37
- ↑ 20,0 20,1 Deborah Levine Gera, Warrior women: the anonymous Tractatus de mulieribus, trang 81
- ↑ See note 1
- ↑ Waldemar Heckel, Lawrence A. Tritle, Alexander the Great: a new history, trang 37
- ↑ Waldemar Heckel, John Yardley, Alexander the Great: historical texts in translation, trang 81
- ↑ Waldemar Heckel, The Wars of Alexander the Great: 336-323 BC, trang 48
- ↑ Marcus Junianus Justinus, John Yardley, Waldemar Heckel, Epitome of the Philippic history of Pompeius Trogus: books 11-12, Alexander the Great, trang 58
- ↑ Marcus Junianus Justinus, John Yardley, Waldemar Heckel, Epitome of the Philippic history of Pompeius Trogus: books 11-12, Alexander the Great, trang 197
- ↑ Ulrich Wilcken, Alexander the Great, trang 145
- ↑ Waldemar Heckel, The conquests of Alexander the Great, trang 137
- ↑ Waldemar Heckel, John Yardley, Alexander the Great: historical texts in translation, trang 187
- ↑ Arrian, Anabasis Alexandri III, 23–25, 27–30; IV, 1–7
- ↑ Arrian, Anabasis Alexandri III, 30
- ↑ J. O. Thorne, Chambers's biographical dictionary, trang 25
- ↑ An universal history: The ancient part, Tập 8, trang 51
- ↑ James R. Ashley, The Macedonian Empire: The Era of Warfare Under Philip II and Alexander the Great, 359-323 B.C., trang 66
- ↑ Mrs. Edmund Hornby, Constantinople during the Crimean War, trang 187
- ↑ Tony Jaques, Dictionary of battles and sieges: a guide to 8,500 battles from..., Tập 2, trang 488
- ↑ Arrian, Anabasis Alexandri IV, 5–6, 16–17
- ↑ Agnes Savill, Alexander the Great and his time, trang 76
- ↑ Narain, pp. 155–165
- ↑ Curtius.
- ↑ (Ancient India, 1971, p 99, Dr R. C. Majumdar; History and Culture of Indian People, The Age of Imperial Unity, Foreign Invasion, p 46, Dr R. K Mukerjee.
- ↑ Curtius in McCrindle, Op cit, p 192, J. W. McCrindle; History of Punjab, Vol I, 1997, p 229, Punajbi University, Patiala, (Editors): Fauja Singh, L. M. Joshi; Kambojas Through the Ages, 2005, p 134, Kirpal Singh.
- ↑ Carnage and Culture: Landmark Battles in the Rise to Western Power, 2002, p 86, Victor Hanson.
- ↑ Trevor Nevitt Dupuy, International military and defense encyclopedia, Tập 1, trang 1993
- ↑ 45,0 45,1 45,2 Waldemar Heckel, John Yardley, Alexander the Great: historical texts in translation, trang 49
- ↑ 46,0 46,1 Trevor Nevitt Dupuy, The military life of Alexander the Great of Macedon, trang 137
- ↑ Waldemar Heckel, John Yardley, Alexander the Great: historical texts in translation, trang 48
- ↑ The encyclopædia britannica: a dictionary of arts, sciences, literature and general information, Volume 14 p. 398
- ↑ Alexander the Great: a reader Author Ian Worthington Editor Ian Worthington Edition illustrated, reprint Publisher Routledge, 2003ISBN 0-415-29186-0, ISBN 978-0-415-29186-6 Length 332 pages p. 175
- ↑ Plutarch, Vita Alexandri, 62
- ↑ Ian Worthington, Alexander the Great: man and God, trang 168
- ↑ Walter Yust, Encyclopædia Britannica: a new survey of universal knowledge, Tập 3, trang 8
- ↑ Nigel Cawthorne, Alexander the Great, trang 119
- ↑ A. B. Bosworth, E. J. Baynham, Alexander the Great in fact and fiction, trang 34
- ↑ A. B. Bosworth, Conquest and empire: the reign of Alexander the Great, trang 143
- ↑ "L'impérialisme macédonien et l'hellénisation de l'Orient" - Pierre Jouguet - trang 68
- ↑ Trevor Nevitt Dupuy, The military life of Alexander the Great of Macedon, trang XI
- ↑ Trevor Nevitt Dupuy, The military life of Alexander the Great of Macedon, trang 147
- ↑ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 66
- ↑ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 10
- ↑ Plutarch, Judith Mossman, Lives of the noble Grecians and Romans, trang 188
- ↑ Plutarch, Judith Mossman, Lives of the noble Grecians and Romans, các trang 195-198.
- ↑ Waldemar Heckel, The Marshals of Alexander's Empire, trang 56
- ↑ Nghiên cứu về Alexander, Little, Brown và Co. Boston, 1980, p. 261.
- ↑ Marcus Junianus Justinus, John Yardley, Waldemar Heckel, Epitome of the Philippic history of Pompeius Trogus: books 11-12, Alexander the Great, trang 279
Tham khảo[sửa]
Nguồn sơ cấp[sửa]
-
Arrian,
Anabasis
Alexandri
(The
Campaigns
of
Alexander).
- Translated by Aubrey de Sélincourt: Arrian; translated (1976). The campaigns of Alexander. Penguin. ISBN 0140442537.
-
Curtius
Rufus,
Historiae
Alexandri
Magni
(History
of
Alexander
the
Great).
- Online version: “Curtius Rufus, History of Alexander the Great”. penelope.uchicago.edu. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.. Bản mẫu:En icon
-
Diodorus
Siculus,
Bibliotheca
historica,
(Library
of
History).
- Online version: “Diodorus Siculus, Library”. perseus.tufts.edu. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.. Bản mẫu:En icon
- Translated by C.H. Oldfather (1989).
-
Justin,
Epitome
of
the
Philippic
History
of
Pompeius
Trogus.
- Online version: “Justin: Epitome of the Philippic History of Pompeius Trogus”. forumromanum.org. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.. Bản mẫu:En icon
- Translated by Rev. John Selby Watson (1853).
-
Plutarch,
Alexander.
- Online version: “Plutarch, Alexander (English).: Alexander (ed. Bernadotte Perrin)”. perseus.tufts.edu. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.. Bản mẫu:En icon
- Translated by Bernadotte Perrin (1919).
-
Plutarch,
Moralia,
Fortuna
Alexandri
(On
the
Fortune
or
Virtue
of
Alexander).
- Online version: “Plutarch, On the Fortune of Alexander”. penelope.uchicago.edu. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url và title phải được chỉ định.. Bản mẫu:En icon
- Plutarch, John Langhorne, William Langhorne, Plutarch's Lives, Tập 2, Hickman and Hazzard, 1822.
- Translated by Bill Thayer.
Nguồn thứ cấp[sửa]
- J. O. Thorne, Chambers's biographical dictionary, St Martin's Press, 1969.
- William Haig Miller, James Macaulay, William Stevens, The Leisure hour, s.n., 1879.
- Barnett, C. (1997). Bonaparte. Wordsworth Editions. ISBN 1853266787.
- Beazley JD and Ashmole B (1932). Greek Sculpture and Painting. Cambridge University Press.
- Bose, Partha (2003). Alexander the Great's Art of Strategy. Allen & Unwin. ISBN 1741141133.
- Trevor Nevitt Dupuy, The military life of Alexander the Great of Macedon, F. Watts, 1969.
- Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, University of California Press, 1975. ISBN 0-520-02775-2.
- Trevor Nevitt Dupuy, International military and defense encyclopedia, Tập 1, Brassey's (US), 1993. ISBN 0-02-881011-2.
- Bowra, Maurice (1994). The Greek Experience. Phoenix Books. ISBN 1857991222.
- Danforth, Loring M. (1997). The Macedonian Conflict: Ethnic Nationalism in a Transnational World. Princeton University Press. ISBN 0691043566.
- Grigori Sidorov, Arturo Hernández Aguirre, Carlos Alberto Reyes Garcia, Advances in Soft Computing: 9th Mexican International Conference on Artificial Intelligence, Micai 2010, Pachuca, Mexico, November 8-13, 2010, Proceedings, Phần 2, Springer, 2010. ISBN 3-642-16772-1.
- Durant, Will (1966). The Story of Civilization: The Life of Greece. Simon & Schuster. ISBN 0671418009.
- Bill Fawcett, (2006). Bill Fawcett. ed. How To Loose A Battle: Foolish Plans and Great Military Blunders. Harper. ISBN 0060760249.
- M. M. Austin, The Hellenistic world from Alexander to the Roman conquest: a selection of ancient sources in translation, Cambridge University Press, 2006. ISBN 0-521-82860-0.
- Gergel, Tania (editor) (2004). The Brief Life and Towering Exploits of History's Greatest Conqueror as Told By His Original Biographers. Penguin Books. ISBN 0142001406.
- Bản mẫu:Citebook
- Bản mẫu:Citebook
- Greene, Robert (2000). The 48 Laws of Power. Penguin Books. tr. 351. ISBN 0140280197.
- Grimal, Nicolas (1992). A History of Ancient Egypt (ấn bản reprint). Blackwell Publishing. ISBN 9780631193960.
- Gunther, John (2007). Alexander the Great. Sterling. ISBN 1402745192.
- Hammond, N. G. L. (1989). The Macedonian State: Origins, Institutions, and History. Oxford University Press. ISBN 0198148836.
- Holland, T. (2003). Rubicon: Triumph and Tragedy in the Roman Republic. Abacus. ISBN 9780349115634.
- Holt, Frank Lee (2003). Alexander the Great and the mystery of the elephant medallions. University of California Press. ISBN 0520238818.
- Keay, John (2001). India: A History. Grove Press. ISBN 0802137970.
- Bản mẫu:Citebook
- Bản mẫu:Citebook
- Goldsworthy, A. (2003). The Fall of Carthage. Cassel. ISBN 0304366420.
- Luniya, Bhanwarlal Nathuram (1978). Life and Culture in Ancient India: From the Earliest Times to 1000 A.D.. Lakshmi Narain Agarwal. LCCN 78907043.
- McCarty, Nick (2004). Alexander the Great. Penguin. ISBN 0670042684.
- Murphy, James Jerome; Richard A. Katula, Forbes I. Hill, Donovan J. Ochs (2003). A Synoptic History of Classical Rhetoric. Lawrence Erlbaum Associates. tr. 17. ISBN 1880393352.
- Nandan, Y and Bhavan, BV (2003). British Death March Under Asiatic Impulse: Epic of Anglo-Indian Tragedy in Afghanistan. Mumbai: Bharatiya Vidya Bhavan. ISBN 8172763018.
- Narain, AK (1965). Alexander the Great: Greece and Rome–12.
- Michael Burgan, Alexander the Great: World Conqueror, Compass Point Books, 2007. ISBN 0-7565-1872-5.
- Juan Eduardo Campo, Encyclopedia of Islam, Infobase Publishing, 2009. ISBN 0-8160-5454-1.
- Daniel Ogden (2009). "Alexander's Sex Life". trong Alice Heckel, Waldemar Heckel, Lawrence A. Tritle. Alexander the Great: A New History. Wiley-Blackwell. ISBN 1405130822.
- Pratt, James Bissett (1996). The Pilgrimage of Buddhism and a Buddhist Pilgrimage. Laurier Books. ISBN 8120611969.
- Pomeroy, S.; Burstein, S.; Dolan, W.; Roberts, J. (1998). Ancient Greece: A Political, Social, and Cultural History. Oxford University Press. ISBN 0195097424.
- Renault, Mary (2001). The Nature of Alexander the Great. Penguin. ISBN 014139076X.
- Trudy Ring, Robert M. Salkin, K. A. Berney, Paul E. Schellinger (1994). Taylor & Francis. ed. International dictionary of historic places. Chicago; Fitzroy Dearborn, 1994–1996.. ISBN 9781884964036.
- Sabin, P; van Wees, H; Whitby, M (2007). The Cambridge History of Greek and Roman Warfare: Greece, the Hellenistic World and the Rise of Rome. Cambridge University Press. ISBN 0521782732.
- Sacks, David (1995). Encyclopedia of the Ancient Greek World. Constable and Co.. ISBN 0094752702.
- Stoneman, Richard (2004). Alexander the Great. Routledge. ISBN 0415319323.
- Studniczka, Franz (1894). Achäologische Jahrbook 9.
- Tripathi, Rama Shankar (1999). History of Ancient India. ISBN 9788120800182.
- Trudy Ring, Robert M. Salkin, K. A. Berney, Paul E. Schellinger (1994). International dictionary of historic places. Taylor & Francis. ISBN 1884964036.
- Bản mẫu:Citebook
- Bản mẫu:Citebook
- Bản mẫu:Citebook
- Bùi Đức Tịnh (biên dịch), Lịch sử thế giới: Từ 570 triệu năm trước đến 1990 Công nguyên: Trình bày bằng những hình ảnh cụ thể, Nhà xuất bản Văn hóa, 1997.
- Thẩm Kiên (chủ biên), Mười đại hoàng đế thế giới, Phong Đảo dịch, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2003
Liên kết ngoài[sửa]
Bản mẫu:End boxBản mẫu:Vua Ba Tư thời thuộc MacedoniaBản mẫu:Người Ai Cập cổ đại tiêu biểuBản mẫu:Vua MacedonBản mẫu:Các chủ đề
Tiền
nhiệm: Philip II |
Quốc
vương
của
Macedonia 336–323 TCN |
Kế
vị: Philip III & Alexandros IV |
Tiền
nhiệm: Darius III |
Hoàng
đế
Ba
Tư
vĩ
đại
(Shah) 330–323 TCN |
|
Pharaông
của
Ai
Cập 332–323 TCN |
Liên kết đến đây
- Afghanistan
- Aristoteles
- Augustus
- Charlemagne
- Châu Âu
- Chiến tranh
- Chủ nghĩa thực dân
- Cyrus Đại đế
- Hy Lạp cổ đại
- Iran
- Xem thêm liên kết đến trang này.