Giê-su

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Giêsu (có thể viết khác là Giê-su, Giê-xu, Yêsu, Jesus, Gia-tô, Da-tô[1]), cũng được gọi là Giêsu Kitô, Jesus Christ, hay Gia-tô Cơ-đốc, là người sáng lập ra Kitô giáo. Giêsu là người Do Thái có tên là Yehoshua (יהושע - có nghĩa là "Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ" trong tiếng Hebrew), thường được gọi vắn tắt là Yeshua (ישוע). Đối với người đương thời, Giêsu còn được biết dưới tên Giêsu thành Nazareth, hoặc Giêsu con ông Giuse. Từ "Kitô" (tiếng Latinh: Christus; tiếng Hy Lạp: Χριστός Khristós hoặc từ "Cơ Đốc", chữ Nho: 基督 Ji-du) là một danh hiệu của Giêsu, có nghĩa là "người được xức dầu", nhằm chỉ ông là một vị lãnh đạo, chính trị cũng như tôn giáo, được chọn bởi Thiên Chúa. Những gì chúng ta biết được về Giêsu là do được ghi chép trong Thánh Kinh Tân Ước, đặc biệt là trong bốn sách Phúc Âm.

Những nguồn thông tin chính về cuộc đời và những lời dạy của Giêsu là bốn sách Phúc Âm quy điển, đặc biệt là trong Phúc âm Nhất lãm,[2][3] mặc dù nhiều học giả cho rằng những văn bản như Phúc âm Tôma Phúc âm người Hebrews [4][5] cũng xác đáng.[6]

Trong Hồi giáo, Giêsu (, chuyển tự là Isa) được xem là một nhà tiên tri quan trọng của Thiên Chúa[7][8], người mang lại Injil (Phúc âm), và là người làm những phép lạ. Hồi giáo cũng xưng nhận Giêsu là Đấng Masih (Messiah), nhưng họ không dạy rằng Giêsu mang đặc tính thần linh. Hồi giáo dạy rằng Giêsu đã lên thiên đường cả linh hồn và thể xác nhưng không trải qua việc đóng đinh vào thập tự và phục sinh,[9] khác với niềm tin truyền thống của Kitô giáo về cái chết và sự phục sinh của Giêsu.

Tên và danh hiệu[sửa]

Người Do Thái đương thời thường thêm tên người cha hoặc tên quê quán vào tên gọi cá nhân.[10] Như vậy, trong Tân Ước, Giêsu cũng được gọi là "Giêsu thành Nazareth" (Matthew 26:71)[11], "con ông Giuse" (Luca 4:22) hoặc đầy đủ nhất là "Giêsu con ông Giuse thành Nazareth" (John 1:45)[12]. Tuy nhiên, trong Máccô 6:3 thì lại gọi là "con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn"[13]. Tên Giêsu ngày nay trong các ngôn ngữ hiện đại có nguồn gốc từ Iesus trong tiếng Latinh, đây là một hình thức chuyển tự của chữ Ἰησοῦς (Iesous) từ tiếng Hi Lạp.[14] Hình thức thể hiện của tiếng Hy Lạp lại bắt nguồn từ chữ ישוע (Yeshua) trong tiếng Aramaic, nhưng tựu chung có nguồn gốc từ chữ יהושע (Yehoshua) của tiếng Do Thái.[15][16] Tên Yeshua dường như đã được sử dụng trong xứ Judea tại thời điểm Giêsu ra đời.[17] Theo giải thích của Tân Ước, tên gọi này nghĩa là "Giavê là sự cứu rỗi".

Các tín đồ sơ khai đã thường gọi là "Chúa Giêsu Kitô". Chữ "Kitô" hoặc "Cơ Đốc" (tiếng Anh: Christ) không phải là tên nhưng là một danh hiệu. Trong tiếng Hy Lạp Khristos (Χριστός), có nghĩa là "người được xức dầu", được dịch từ tiếng Hebrew Messiah, để ám chỉ vị lãnh đạo được Thiên Chúa sai đến để giải cứu dân Chúa, nhưng trong ngôn ngữ hiện đại được hiểu là "Đấng cứu thế".[14][18] Chữ Kitô hữu được chỉ những người tin và theo Chúa Kitô.

Theo ký thuật của các sách Phúc Âm, Giêsu xưng mình là Con người (the Son of man - tức "Con của loài người", "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con người không có chỗ tựa đầu" - Mt 8:20). Danh xưng này thường được cho là để khẳng định Giêsu là một con người trọn vẹn cũng như Giêsu được gọi là Con Thiên Chúa (the Son of God, "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" - Mt 27:54) để khẳng định Giêsu đồng thời cũng là Thiên Chúa cách trọn vẹn.[19].

Ngoài ra, Giêsu còn có một số danh xưng khác như "Đấng Tiên tri", "Chúa". Trong Phúc âm John chương 14 câu 6 chép: "Đức Chúa Giêsu phán rằng: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" (John 14:6). Theo đức tin Kitô giáo, Giê-su là con Đức Chúa Trời, và được sinh ra trên Trái Đất và chịu đóng đinh, để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi, nên Giê-su còn được xưng tụng là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Rỗi, Cứu Chúa -"Nhưng Thiên Chúa tỏ lòng yêu thương của Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Chúa Cơ Đốc vì chúng ta chịu chết". (Roma 5:8).

Niên đại[sửa]

Hầu hết các học giả đồng ý rằng Giêsu là một người Do Thái vùng Galilee, sinh vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất và qua đời trong khoảng từ năm 30 đến 36 SCN tại xứ Judea, ông chỉ sống và hoạt động tại Galilê và Giuđêa chứ không ở nơi khác[20][21]. Các sách Phúc Âm chỉ tập trung vào quãng đời ba năm cuối khi Giêsu sống dưới trần gian, đặc biệt là tuần lễ cuối cùng trước khi bị đóng đinh vào thập giá, nhưng chúng cũng cung cấp một số manh mối liên quan đến năm sinh của Chúa Giêsu. Đoạn Mátthêu 2:1 liên kết sự giáng sinh của Chúa Giêsu với sự cai trị của Herod Đại đế - người đã chết vào khoảng năm thứ 4 trước Công nguyên, và đoạn Luca 1:5 viết rằng Herod đã trị vì trước khi Chúa Giêsu giáng sinh, ngoài ra Phúc Âm này còn đề cập đến cuộc điều tra dân số của chính quyền La Mã diễn ra mười năm sau đó. Luke 3:1-2 và 3:23 viết rằng Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ khi ông khoảng ba mươi tuổi, và đó là năm thứ 15 của triều đại Tiberius triều đại (khoảng năm 28 hoặc 29 Công Nguyên). Qua những chi tiết này và bằng các phương pháp phân tích khác nhau, hầu hết các học giả đi đến đồng thuận rằng Chúa Giêsu sinh trong khoảng từ năm thứ 6 đến 4 trước Công nguyên,

Về thời điểm qua đời, tức là sự kiện ông bị đóng đinh trên cây thập giá, hầu hết các học giả đồng ý rằng sự kiện này xảy ra trong khoảng từ năm 30 đến 33 Công nguyên.[22] Các sách Phúc Âm nói rằng sự kiện này xảy ra trong thành xứ Judea Pilate là tổng trấn thuộc quyền La Mã khoảng năm 26-36.[23] Người ta tin rằng ngày mà Phaolô theo Kitô giáo (ước tính khoảng năm 33-36) có mối liên hệ nào đó đến cho ngày Chúa Giêsu bị đóng đinh qua việc phân tích thư của Thánh Phaolô và Sách Công vụ Tông đồ.[24] Các nhà thiên văn từ thời Isaac Newton đã cố gắng ước lượng chính xác ngày Chúa Giêsu bị đóng đinh bằng cách phân tích chuyển động của Mặt Trăng và tính theo lịch sử của lễ Vượt Qua theo lịch của người Do Thái. Và ngày giả thiết được chấp nhận rộng rãi nhất theo phương pháp này là ngày 7 tháng 4, năm 30 AD; và ngày 3 tháng 4 năm 33 (kể cả lịch Julian).

Cuộc đời và tư tưởng[sửa]

Giêsu, theo các sách Phúc Âm, là một người Do Thái tôn trọng luật pháp Moses (kinh Torah), là nhà thuyết giáo và người chữa bệnh bằng phép mầu, cũng là người thường bất đồng với giáo quyền Do Thái, và cuối cùng, là người bị đóng đinh trên thập tự giá dưới phán quyết của chính quyền Đế quốc La Mã theo ý giáo quyền Do Thái.

Theo đó, Giêsu sinh tại Belem (gần Jerusalem). Mẹ của Giêsu, Maria (Mary), là một phụ nữ đồng trinh đã mang thai bởi quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Linh. Giuse (Joseph), chồng của Maria, chỉ được nhắc đến trong thời thơ ấu của Giêsu, dẫn đến những suy đoán rằng ông qua đời trước khi Giêsu bắt đầu đi giảng dạy. Theo các sách Phúc Âm, khi Giêsu sinh ra, các mục đồng được thiên sứ báo tin đã đến thờ lạy và mấy nhà thông thái (còn gọi là mấy nhà chiêm tinh hay mấy đạo sĩ, hoặc ba vua) từ phương Đông xa xôi, được dẫn dắt bởi một ngôi sao lạ, đã tìm đến để tôn thờ Giêsu.

Tập tin:ChineseJesus.jpg
Chúa Giêsu theo hội họa Trung Hoa

Phúc âm Mark 6:3 ký thuật rằng "Giêsu là con của Maria, anh của Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon". Josephus, sử gia Do Thái, và Eusebius, sử gia Kitô giáo, có nhắc đến Người Công chính như là em ruột của Giêsu. Tuy nhiên, Hieronymus cho rằng Giacôbê chỉ là em họ của Giêsu. Cách giải thích này đặt nền tảng cho truyền thống Công giáo Rôma Chính Thống giáo Đông phương tin rằng Maria đồng trinh trọn đời.

Giêsu trải qua thời niên thiếu tại làng Nazareth thuộc xứ Galilee. Chỉ có một sự kiện xảy ra trong thời gian này được ghi lại là khi cậu bé Giêsu theo gia đình lên Jerusalem trong một chuyến hành hương. Bị thất lạc khỏi cha mẹ, cuối cùng cậu bé Giêsu 12 tuổi được tìm thấy trong Đền thờ Jerusalem, đang tranh luận với các học giả Do Thái giáo.

Ngay sau khi chịu lễ Thanh Tẩy (lễ rửa tội) bởi Gioan Baotixita, Giêsu bắt đầu đi rao giảng, khi ấy khoảng ba mươi tuổi. Theo Phúc Âm Lu-ca, Giêsu và Gioan Baotixita là anh em họ vì Maria và Elizabeth, mẹ của Gioan, là hai chị em họ.

Theo Kinh Thánh, Giêsu đã cùng các môn đồ đi khắp xứ Galilea để giảng dạy và chữa bệnh. Cung cách giảng dạy mang thẩm quyền, uy lực cùng với kỹ năng diễn thuyết điêu luyện, Giêsu sử dụng các dụ ngôn để giảng dạy quan điểm về tình yêu thương nên đã thu hút rất nhiều người. Họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi nào Giêsu có mặt. Đôi khi đám đông trở nên mất trật tự và ông buộc phải ngồi trên thuyền mà giảng dạy. Giêsu cũng tìm đến và thuyết giáo tại các hội đường Do Thái giáo (synagogue).

Giêsu áp dụng các phương pháp khác nhau khi giảng dạy, phép nghịch lý, phép ẩn dụ và các truyện dụ ngôn. Ông thường tập trung vào Nước Trời (hay Thiên Quốc). Nổi tiếng nhất là Bài giảng trên núi, trong đó đề cập đến Tám Mối Phúc thật (Beatitudes). Trong số những dụ ngôn của Giêsu, được biết đến nhiều nhất là hai câu chuyện: Người Samaria nhân lành Người con trai hoang đàng. Giêsu có nhiều môn đồ, thân cận nhất là mười hai sứ đồ (hoặc tông đồ), Phêrô (Peter) được Công giáo Rôma cho là sứ đồ trưởng. Theo Tân Ước, Giêsu làm nhiều phép lạ như chữa bệnh, đuổi tà ma và khiến một người đàn ông tên là Lazarô sống lại khi đã chết.

Giới lãnh đạo Do Thái giáo bao gồm các nhóm quyền lực đối nghịch nhau như nhóm Sadducee và nhóm Pharisêu (Pharisee) thường bất đồng với Giêsu. Ông vẫn thường vạch trần tính chuộng hình thức cũng như tinh thần đạo đức giả của người Pharisêu. Nhiều người xem Giêsu như một nhà cải cách xã hội, những người khác tỏ ra nhiệt tình vì tin rằng ông là vị vua đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế quốc La Mã, trong khi giới cầm quyền xem Giêsu như một thế lực mới đang đe dọa những định chế tôn giáo và chính trị đương thời. Nhiều người tin nhận Giêsu là "Đấng Cứu Tinh" (Messie, Messiah) đến để cứu chuộc nhân loại.

Bị bắt và bị xét xử[sửa]

Giêsu cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (Passover); ông vào Đền thờ Jerusalem, đánh đuổi những người buôn bán và những kẻ đổi tiền, lật đổ bàn của họ và quở trách họ rằng: "Nhà ta được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các ngươi biến thành hang ổ của bọn trộm cướp". Sau đó, Giêsu bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận (Sanhedrin) bởi viên Thượng tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu vườn Getsemani ở ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Giêsu nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một môn đồ đã phản ông để nhận được tiền.

Tòa công luận cáo buộc Giêsu tội phạm thượng và giao ông cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình, không phải vì tội phạm thượng nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilate (Philatô) miễn cưỡng ra lệnh đóng đinh Giêsu. Tuy nhiên, theo các sách Phúc Âm, một tấm bảng có hàng chữ viết tắt INRI (của câu: "Giêsu người Nazareth, vua dân Do Thái") được treo trên thập tự giá theo lệnh của Pilate.

Sau khi Giêsu chết, Giuse người Arimathea đến gặp Pilate và xin được phép chôn với sự chứng kiến của Maria, Maria Magdalena và những phụ nữ khác.

Phục sinh và thăng thiên[sửa]

Các Kitô hữu tin rằng Chúa Giêsu sống lại vào ngày thứ ba sau khi chết trên thập tự giá. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ Kitô giáo là sự Phục sinh của Chúa Giêsu, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục sinh.

Maria Madalena Maria, mẹ của Giacobê, và Salome khi đến thăm mộ với thuốc thơm để xức xác ông (theo tục lệ thời ấy) thì chỉ thấy ngôi mộ trống mà trước đó họ đã an táng ông trong đó [Mác-cô 16:1]. Phúc Âm Gioan (20:12, 20:13, 20:14) thuật rằng khi Maria Madalena đến bên ngôi mộ trống thì thấy hai thiên sứ mặc áo trắng. Hai thiên sứ hỏi: "Hỡi người đàn bà kia, sao ngươi khóc? Người thưa rằng: Vì người ta đă dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu". Vừa nói xong người đàn bà quay lại, thấy Đức Chúa Jêsus tại đó; nhưng chẳng biết ấy là Đức Chúa Giêsu. Các sách Phúc Âm và Công vụ đều ghi nhận rằng Giêsu đã gặp lại các môn đệ tại các nơi chốn khác nhau trong suốt bốn mươi ngày trước khi về trời. Phúc âm Mác-cô (16:20) chép, về phần các môn đồ, thì họ ra đi giảng đạo khắp mọi nơi, Chúa cùng đi với các môn đồ, và lấy các phép lạ cặp theo lời giảng mà làm cho vững đạo. Và đức Chúa Giêsu luôn ở cùng các môn đồ của Ngài cho đến ngày tận thế [Mat-tê-ô 28:20].

Hầu hết Kitô hữu chấp nhận câu chuyện phục sinh, như được ký thuật trong Tân Ước, là sự kiện lịch sử và xem đây là tâm điểm cho Đức tin Kitô giáo của họ mặc dù theo quan điểm của một số tín hữu thuộc trào lưu tự do (liberalism), đây chỉ là câu chuyện có tính ẩn dụ. Tuy nhiên lịch sử chứng minh đây là niềm tin bất di dịch của Kitô giáo. Tất cả Kitô hữu tin rằng Giêsu đã làm nhiều dấu kỳ phép lạ và các tông đồ được ban cho quyền lực siêu nhiên bởi ơn Chúa Thánh Thần để chữa lành bệnh tật cho nhiều người và nói được nhiều thứ tiếng khác nhau sau khi Chúa Giêsu về trời.

Bối cảnh: văn hóa và lịch sử[sửa]

Tập tin:Xupalestine.PNG
Xứ Palestine thời Giêsu sống

Thế giới đương thời mà Giêsu sống luôn biến động, được đánh dấu bởi những bế tắc nối tiếp nhau cả về văn hoá và chính trị. Về văn hoá, vì người Do Thái phải vật lộn với nền triết học và các giá trị của văn minh Hy Lạp và với sự mâu thuẫn nội tại của kinh Torah, vì trong khi kinh Torah mặc khải các chân lý có giá trị cho toàn thể nhân loại thì các luật lệ của nó chỉ áp dụng riêng cho người Do Thái. Tình thế này dẫn dắt họ đến những cách giải kinh mới chịu ảnh hưởng của tư tưởng Hy Lạp và nhằm đáp ứng quyền lợi của người không thuộc chủng tộc Do Thái đã gia nhập Do Thái giáo.

Vào thời điểm Giêsu sinh ra, lãnh thổ Israel thuộc Đế quốc La Mã, nhưng đặt dưới quyền cai trị của Herôđê Đại Đế. Vào năm 4, Hoàng đế La Mã Augustus phế truất Herod Archelaus, con của Herôđê Đại Đế và đặt các xứ Judea, Samaria Idumea dưới quyền cai trị trực tiếp của chính quyền La Mã, được giám sát bởi một quan tổng đốc, người này có quyền bổ nhiệm chức Thượng tế của Do Thái giáo. Tình trạng này kéo dài cho đến năm 64. Xứ Galilea, nơi Giêsu lớn lên, vẫn dưới quyền cai trị của Herod Antipas (một người con khác của Herôđê Đại Đế). Khi ấy Nazareth là một làng quê nhỏ bé với vài trăm cư dân, không có hội đường Do Thái giáo (synagogue), cũng không có cơ sở công cộng nào. Không có vàng, bạc hay sản phẩm nhập khẩu được tìm thấy ở đây trong cuộc khai quật khảo cổ.

Vài phe nhóm tranh giành ảnh hưởng với nhau trong cộng đồng Do Thái như nhóm Saducee, có quan hệ mật thiết với giới tư tế và Đền thờ, trong khi nhóm Pharisêu có nhiều ảnh hưởng trong vòng các học giả, giáo sư và lãnh đạo các hội đường. Các nhóm này chống đối sự chiếm đóng của Đế quốc La mã nhưng vào thời Giêsu họ vẫn cố kềm chế để không có phản ứng công khai nào.

Nhiều người kỳ vọng vào sự xuất hiện của một vị Cứu Tinh (Messiah), hậu duệ của vua David để giải phóng họ khỏi sự cai trị của người La Mã. Theo đức tin Do Thái, lịch sử được điều khiển bởi Thiên Chúa, có nghĩa là sự chiếm đóng của người La Mã là một phần trong hoạch định của Ngài. Vì vậy đế quyền La Mã cần được thay thế bởi một vị vua Do Thái nhờ sự can thiệp siêu nhiên. Những người thuộc nhóm quá khích tin rằng chẳng bao lâu Vương quốc Do Thái sẽ được phục hồi và họ chuẩn bị các phương tiện để chống người La Mã. Các phản ứng của người La Mã cuối cùng dẫn đến sự phá đổ Đền thờ và sự suy vong của các nhóm kể trên.

Di sản của Giêsu[sửa]

Theo hầu hết các giải thích Kinh Thánh của Kitô giáo, các chủ đề cơ bản của những lời răn dạy của Giêsu là sự hối cải, tình yêu vô điều kiện, tha thứ tội lỗi và khoan dung và về Thiên đường.[25] Khởi đầu như một giáo phái nhỏ của người Do Thái,[26] nó đã phát triển và trở thành một tôn giáo riêng biệt so với đạo Do Thái vài thập kỷ sau cái chết của Giêsu. Kitô giáo đã lan rộng ra khắp đế chế La Mã dưới dạng được biết đến qua Tín điều Nicea và trở thành quốc giáo dưới thời Theodosius I. Qua hàng thế kỷ, nó lan rộng đến hầu hết châu Âu và trên toàn thế giới. C. S. Lewis Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bảo vệ niềm tin vào Chúa Giêsu trước những sự chỉ trích mang tính lịch sử.

Nhận định từ một số tôn giáo[sửa]

Hầu hết Kitô hữu tin rằng, Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Messiah mà sự xuất hiện đã được tiên báo trong Cựu Ước. Họ tin rằng Giêsu là Thiên Chúa hóa thân thành con người, là Ngôi Hai trong Ba Ngôi; rằng Giêsu nhập thể bởi quyền phép Chúa Thánh Linh, xuống thế gian để cứu nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết bởi máu của Giêsu đã đổ ra khi bị đóng đinh trên thập tự giá như là sinh tế chuộc tội cho loài người. Họ cũng tin rằng Giêsu đã sống lại từ cõi chết và sau đó trở lại Thiên Đàng.

Khác với đức tin của người Kitô giáo, tín đồ Hồi giáo tin rằng, Giêsu là một trong những nhà tiên tri (ngôn sứ) đáng được tôn trọng, được Thiên Chúa sai đến và là Đấng Messiah; nhưng họ không tin Giêsu là "Con Thiên Chúa". Họ cũng không tin về sự chết và sự phục sinh của Giêsu, xem đó chỉ là sự hóa phép của Thiên Chúa dành cho tiên tri Giêsu để đánh lừa người đương thời. Sau đó, Giêsu về trời cả hồn lẫn xác.

Do Thái giáo thì cực lực phản đối cả hai niềm tin của hai tôn giáo trên. Họ không xem Giêsu là Thiên Chúa xuống thế làm người cũng không nhận đó là nhà tiên tri, thậm chí coi đó là nhà tiên tri giả hay kẻ xúc phạm đến Thiên Chúa của họ. Họ cho rằng, kể từ sau sự sụp đổ lần thứ hai của Đền thờ Jerusalem, không có một tiên tri nào xuất hiện thêm nữa. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn đang hy vọng có một Đấng Messiah từ trời xuống.

Phật giáo hầu như không đưa ra nhận định về vai trò của Giêsu trong tôn giáo họ. Đối với họ, dựa theo lịch sử, Giêsu chỉ là một con người. Tuy nhiên, một số tín đồ thuộc một số phái cho rằng, với những đức tính hiển nhiên của Giêsu, chắc chắn sau đó Giêsu cũng được sinh vào cõi trời dựa theo luật nhân quả. Do đó, những người tu theo Phật giáo cấp tiến, nhất là Tịnh độ tông, có thể tôn kính Giêsu như một vị A-la-hán hay Bồ tát[27].

Một số Phật tử, trong đó có Tenzin Gyatso, Đạt-lại Lạt-ma thứ 14[28] xem Giêsu như một vị Bồ tát, người cống hiến đời mình cho hạnh phúc của nhân loại. Nga Sơn Thiều Thạc ở thế kỷ 14 của Tào Động tông ngụ ý rằng những lời dạy của Giêsu trong Sách Phúc Âm do một người đã được giải thoát viết.[29]

Một người Nhật theo chủ nghĩa vô chính phủ, Kōtoku Shūsui có viết tác phẩm Kirisuto Massatsuron(基督抹殺論, Cơ Đốc Mạt Sát Luận). Trong tác phẩm này, Shūsui cho rằng Chúa Giêsu chỉ là một nhân vật thần thoại và không có thực.[30][31].

Vì có vai trò đặc biệt trong một số tôn giáo này, Giêsu được nhìn nhận là một trong những nhân vật quan trọng nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử nhân loại.

Xem thêm[sửa]

Ghi chú[sửa]

  1. Gia-tô hay Da-tô phiên âm Hán-Việt từ 耶穌 (phồn thể) hoặc 耶稣 (giản thể), pīnyīn: Yēsū
  2. "The Gospel of John is quite different from the other three gospels, and it is primarily in the latter that we must seek information about Jesus." Sanders (1993), p. 57.
  3. Funk, Robert W.; Seminar, Jesus (1998). Introduction. San Francisco: HarperSanFrancisco. 1–40. ISBN 978-0-06-062978-6.
  4. P. Parker, A Proto-Lukan Basis for the Gospel According to the Hebrews Journal of Biblical Literature, Vol. 59, No. 4 (Dec., 1940), pp. 471-473
  5. J. R. Edwards, The Hebrew Gospel & the Development of the Synoptic Tradition, Eerdmans Publishing, 2009 pp. 1-376
  6. Levine, Amy-Jill (1998). Coogan Michael D.. ed. Visions of Kingdoms: From Pompey to the First Jewish Revolt (63 TCN—70 CE). New York and Oxford: Oxford University Press. 370–371. ISBN 978-0-19-508707-9. http://books.google.ca/books?id=zFhvECwNQD0C&pg=PA352.
  7. Houlden, James L. (2005). Jesus: The Complete Guide. London: Continuum. ISBN 978-0-8264-8011-8.
  8. Prof. Dr. Şaban Ali Düzgün (2004). “Uncovering Islam: Questions and Answers about Islamic Beliefs and Teachings”. The Presidency of Religious Affairs Publishing.
  9. “Compendium of Muslim Texts”.
  10. Mátthêu 26:71
  11. Gioan 1:45
  12. Máccô 6:3
  13. 14,0 14,1
  14. Ehrman, Bart D. (2012). Did Jesus Exist?: The Historical Argument for Jesus of Nazareth. HarperOne. tr. 29. ISBN 978-0-06-208994-6. http://books.google.com/?id=hf5Rj8EtsPkC&printsec=frontcover&dq=did+jesus+exist+bart+ehrman#v=snippet&q=%22nearly%20anyone%20who%20lived%20in%20the%20first%20century%22&f=false.
  15. “Joshua”. Merriam-Webster. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  16. Hare, Douglas (2009). Matthew. Westminster John Knox Press. tr. 11. ISBN 978-0-664-23433-1.
  17. Heil, John P. (2010). Philippians: Let Us Rejoice in Being Conformed to Christ. Society of Biblical Lit. tr. 66. ISBN 978-1-58983-482-8. http://books.google.com/books?id=i4u42_PsPNsC&pg=PA66#v=onepage&q&f=false.
  18. Christian Theology: An Introduction by Alister E. McGrath 2010 ISBN 1-4443-3514-6 page 270
  19. Green, Joel B.; McKnight, Scot; Marshall, I. Howard (1992). Dictionary of Jesus and the Gospels. InterVarsity Press. tr. 442. ISBN 9780830817771. http://books.google.com/?id=9ntwNm-tOogC&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
  20. Humphreys, Colin J.; Waddington, W. G. (1992). "The Jewish Calendar, a Lunar Eclipse and the Date of Christ's Crucifixion". Tyndale Bulletin 43 (2): 340. http://www.tyndalehouse.com/tynbul/library/TynBull_1992_43_2_06_Humphreys_DateChristsCrucifixion.pdf#page=9. 
  21. Green, Joel B. (1997). The gospel of Luke: New International Commentary on the New Testament Series. Wm. B. Eerdmans Publishing. tr. 168. ISBN 978-0-8028-2315-1. http://books.google.com/?id=wzRVN2S8cVgC&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
  22. Barnett, Paul (2002). Jesus & the Rise of Early Christianity: A History of New Testament Times. InterVarsity Press. tr. 21. ISBN 978-0-8308-2699-5. http://books.google.com/books?id=NlFYY_iVt9cC&pg=PA21#v=onepage&q&f=false.
  23. Sniegocki, John. "Review of Joseph GRASSI, Peace on Earth: Roots and Practices from Luke's Gospel," Collegeville, Minnesota: Liturgical Press, 2004 (repentance, forgiveness); Bock, Darrell L. "Major Themes of Jesus' life", (coming of the Kingdom of God); Brussat, Frederic and Mary Ann. "Review of If Grace Is So Amazing, Why Do not We Like It?," (grace); Hughes, F. A. "Grace and Truth", Stem Publishing 1972 (grace)
  24. Duhaime, Jean; Blasi, Anthony J.; Turcotte, Paul-André (2002). Handbook of early Christianity: social science approaches. Walnut Creek, Calif: AltaMira Press. tr. 434. ISBN 0759100152.
  25. Trang Phật tử Việt Nam
  26. Beverley, James A., Hollywood's Idol, Christianity Today, "Jesus Christ also lived previous lives", he said. "So, you see, he reached a high state, either as a Bodhisattva, or an enlightened person, through Buddhist practice or something like that", Truy cập 20 tháng 4, 2007
  27. 101 Zen Stories; #16
  28. 基督抹殺論(Iwanami Shoten, Publishers website, tiếng Nhật)
  29. Full text of "Japanese Thought In The Meiji Era Centenary Culture Council Series"

Đọc thêm[sửa]

V. 1, The Roots of the Problem and the Person, 1991. ISBN 0-385-26425-9
V. 2, Mentor, Message, and Miracles, 1994. ISBN 0-385-46992-6
V. 3, Companions and Competitors, 2001. ISBN 0-385-46993-4

Liên kết ngoài[sửa]

Liên kết đến đây

Xem thêm liên kết đến trang này.