Từ Hán-Việt
Từ Hán-Việt(詞漢越)là từ vựng sử dụng trong tiếng Việt có gốc từ tiếng Trung Quốc nhưng đọc theo âm Hán-Việt. Cùng với sự ra đời của chữ quốc ngữ, từ Hán-Việt ngày nay được ghi bằng chữ cái La Mã.
Lịch sử[sửa]
Với sự giao lưu trên các bình diện văn hóa, kinh tế và chiến tranh giữa các dân tộc ở Trung Quốc, Đông Á và Đông Nam Á, chữ Trung Quốc được hình thành, phát triển và trở thành chữ viết chung được sử dụng rộng rãi trong của các dân tộc ở khu vực này. Lưu ý là cách nói và ngôn ngữ của các dân tộc có thể hoàn toàn khác nhau vì thuộc các hệ ngôn ngữ khác nhau.
Sau hàng chục thế kỷ dưới sự cai trị và đồng hóa của người Hán, người Việt vẫn giữ được tiếng nói và nhiều phong tục riêng của mình. Tuy vậy, vẫn có sự ảnh hưởng nhất định về văn hóa, thể chế chính trị của Trung Quốc đối với người Việt, kể cả trong tư tưởng triết học và ngôn ngữ.
Thật vậy, do không có chữ viết riêng (theo truyền thuyết thì người Việt cổ có chữ viết riêng nhưng bị người Hán hủy bỏ, cấm đoán dẫn đến mất hẳn), trước khi chữ quốc ngữ ra đời, người Việt phải dùng chữ Hán để viết nhưng họ đọc theo âm Hán-Việt (chữ Nôm cũng dựa vào chữ Hán nhưng phức tạp hơn và chưa được chuẩn hóa nên cũng không được phổ cập). Cùng với tâm lý ngưỡng mộ văn hóa Trung Hoa, xem đó là mẫu mực, văn hóa Trung Quốc cũng hòa nhập vào văn hóa Việt. Tổ chức chính quyền phong kiến các triều đại đều theo mô hình Trung Quốc. Các nghi lễ "hôn, quan, tang, tế" cũng ảnh hưởng của kiểu Trung Quốc.
Từ Hán-Việt đã góp phần làm phong phú vốn từ của tiếng Việt, nhiều khi không tìm được từ thuần Việt tương đương để thay thế. Ngay cả ngày nay, khi muốn sử dụng một thuật ngữ mới, người ta đều có xu hướng dùng từ Hán-Việt: lập trình, vi mạch, Wiki hóa... Lòng tự tôn dân tộc khiến người Việt có ý muốn hạn chế từ Hán-Việt mỗi khi có thể, nhưng điều này xem ra khá khó khăn.
Hiện tượng đồng âm trong từ Hán-Việt khá phổ biến (ngay cả phát âm theo kiểu Hán cũng vậy), phải đặt trong văn cảnh mới rõ, nhiều khi phải viết ra bằng chữ Hán mới phân biệt được. Thí dụ phi 飛 = "bay" khác với phi 非 = "không" hay "ngoại trừ"; tử 子 = "con" khác với tử 死 = "chết"...
Từ Hán-Việt với ý nghĩa thay đổi[sửa]
Có nhiều từ Hán-Việt đã mang ý nghĩa khác với nghĩa gốc trong tiếng Hán. Ở Trung Quốc, bác sĩ = PhD và y sĩ = medical doctor; ở Việt Nam, tiến sĩ = PhD và bác sĩ = medical doctor trong khi y sĩ = "nhân viên y tế được đào tạo ngắn hạn (3 năm), được quyền khám và điều trị bệnh" (hệ đào tạo này chỉ tồn tại trong điều kiện đất nước còn chiến tranh hoặc khó khăn kinh tế, nay không còn nữa, các y sĩ đó đa số đã theo học hệ chuyên tu khoảng 3 năm nữa để lấy bằng bác sĩ); y sĩ khác với y tá (nay gọi là điều dưỡng - dạng tắt của nhân viên điều dưỡng) là những người được đào tạo các kỹ năng chăm sóc người bệnh, theo y lệnh của bác sĩ và không được phép khám bệnh, cho toa.
Xem thêm[sửa]
Liên kết ngoài[sửa]
- Câu chuyện tiếng Việt: Về việc dùng từ ngữ Hán - Việt trên báo Tuổi trẻ ngày 26/11/2006.
Bài liên quan
Liên kết đến đây
- Phiên âm Hán-Việt
- Afghanistan
- Akbar Đại đế
- Biển Caspi
- Bộ Linh trưởng
- Chất bán dẫn
- Himalaya
- Jerusalem
- Khủng long
- Máy bay
- Xem thêm liên kết đến trang này.