Khoa học hóa cách suy nghĩ, làm việc, học tập/Chương 1

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

 Mục lục - Lời mở đầu - Chương 1 - Chương 2 - Chương 3 - Chương 4

 

Phần: 1.1 - 1.2 - 1.3 - 1.4 - 1.5 - 1.6 - 1.7 - 2.1 - 2.2 - 2.3 - 2.4 - 2.5 - 3.1 - 3.2 - 3.3 - 3.4 - 3.5 - 3.6 - 4.1 - 4.2 - 4.3 - 4.4 - 4.5 - 4.6

TINH THẦN KHOA HỌC

“Nếu nghiên cứu khoa học teo đi, đời sống tinh thần của đất nước ngừng trệ và do đó bao khả năng tiến bộ tương lai tan thành mây khói”.

ANXTANH

Khoa học gồm hai bộ phận: kiến thức khoa học và phương pháp khoa học.

Phương pháp khoa học giúp con người tích luỹ kiến thức khoa học.

Khối kiến thức này tăng không ngừng qua bao thế hệ nhà khoa học, không chỉ làm giàu vốn trí tuệ của con người về các quy luật chi phối hiện tượng tự nhiên mà còn được ứng dụng trong thực tế sản xuất và đời sống ngày càng nhiều, nhằm cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của con người.

Khối kiến thức về lí luận và phương pháp của khoa học cũng làm kết tinh một số đức tính quí báu nhất của nhân loại gọi là tinh thần khoa học (hay trí tuệ khoa học), một bộ phận quan trọng của tư duy.

Tinh thần khoa học thành hình cùng với khoa học qua bao đời nay vẫn giữ nguyên giá trị vì ở thời đại nào nó cũng giúp con người tiếp cận chân lí. Nó không những giúp ích cho nhà khoa học trong công tác nghiên cứu mà còn cho mọi người hành động có kết quả.

Từ xưa tới nay, đã thay đổi các chế độ xã hội, các nguyên lý đạo đức, các nguyên lý thẩm mỹ, các học thuyết khoa học, nhưng tinh thần khoa học vẫn tồn tại với khoa học, mà khoa học thì còn mãi mãi với loài người.

Châm ngôn Ả Rập đã có câu: Khoa học là do một thiên thần tại ác sang tạo ra vì không muốn cho loài người nghỉ ngơi.

Chỉ lúc nào mà tinh thần khoa học sút kém, lúc nào mà con người tự mãn với hiểu biết của mình không muốn sưu tầm kiến thức nữa, lúc đó là nền văn minh đi tới chỗ suy đồi. Lịch sử nhân loại đã chứng minh sự suy tàn của nền văn minh xưa kia sau thời kỳ cực thịnh: cổ Ai Cập, cổ Hi Lạp, cổ La Mã, cổ Trung Quốc v.v..

Sang thời Trung cổ, qua hàng trăm năm, xã hội châu Âu trì trệ vì tinh thần khoa học bị ức chế bởi Nhà thờ. Phải đợi tời thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XVIII), tinh thần khoa học được giải phóng mới thúc đẩy xã hội tiến nên.

Ở thời kỳ phong kiến phương Đông, nhiều nước có xã hội ngưng đọng hàng ngàn năm cũng do tinh thần khoa học bị kìm hãm bởi giai cấp thống trị và tôn giáo.

Nhìn chung, ở thời kỳ nào, nơi nào mà khoa học phát triển, tinh thần khoc học phổ biến rộng rãi, thì mê tín dị đoan giảm hẳn, xã hội hưng thịnh. Còn ở thời kỳ nào, nơi nào mà tinh thần khoa học sút kém, là lúc đó ở nơi đó tôn giáo lộng hành, tà thuyết phát triển, bước tiến của xã hội chậm lại.

Có thể nói: tinh thần khoa học là tinh thần hồn nền văn minh của nhân loại.

Theo nhiều nhà triết học và nhà khoa học, tinh thần khoa học gồm các đức tính sâu đây:

  1. Yêu chân lý và dũng cảm trí tuệ
  2. Trung thực trí tuệ
  3. Độc lập trí tuệ
  4. Nghi vấn khoa học
  5. Tin tưởng khoa học
  6. Khiêm tốn và rộng lượng
  7. Tư duy không vụ lợi

Liên kết đến đây

Xem thêm liên kết đến trang này.