Khoa học hóa cách suy nghĩ, làm việc, học tập/Chương 1.1

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

 Mục lục - Lời mở đầu - Chương 1 - Chương 2 - Chương 3 - Chương 4

 

Phần: 1.1 - 1.2 - 1.3 - 1.4 - 1.5 - 1.6 - 1.7 - 2.1 - 2.2 - 2.3 - 2.4 - 2.5 - 3.1 - 3.2 - 3.3 - 3.4 - 3.5 - 3.6 - 4.1 - 4.2 - 4.3 - 4.4 - 4.5 - 4.6

YÊU CẦU CHÂN LÝ VÀ DŨNG CẢM TRÍ TUỆ

“Dù thế nào chăng nữa trái đất vẫn cứ quay”

Chân lý là sự thật khách quan, Nhà khoa học là người bằng mọi cách, khám phá ra sự thật khách quan trong tự nhiên.

Nếu không có lòng yêu chân lý, không ai có thể vượt khó khăn trở ngại trên con đường hoạt động để tới đỉnh cao của chân lý.

Yêu cầu chân lý đòi hỏi ta một mặt không thiên tư đối với bản thân mình và nhận thức được sai lầm của mình , mặt khác khi đã chắc chắn về một sự thật nào đó thì phải bám chắc lấy không buông.

Không thiên tư đối với bản thân mình là một đòi hỏi khó khăn đối với nhà khoa học. Trong quá trình nghiên cứu, nhiều khi có khá nhiều thí nghiệm đã chứng minh ngày càng rõ giả thuyết ban đầu, củng cố thêm niềm tin vào sáng tạo của mình.

Bỗng có một sự kiện có tính chất phủ định xảy ra. Đây là lúc đau đớn nhất của người nghiên cứu, lúc thử thách lòng dũng cảm của anh ta. Phải có can đảm xoá bỏ toàn bộ cái cũ, nếu cần, và làm lại từ đầu. Vì chân lý, ta không thể nào làm khác.

Để chuẩn bị cho môn đồ vững vàng thêm trong những lúc thử thách đó, nhà vi trùng học Paxtơ đã nói:

Tin tưởng rằng ta đã tìm thấy một sự kiện khoa học quan trọng, nôn nóng để thông báo mà lại phải tự bó mình hàng ngày, hàng tuần, thậm chí hàng năm để đấu tranh bản thân, để cố gắng bác bỏ những thí nghiệm của chính mình, để chỉ công bố kết quả phát minh khi ta đã đề xuất hết cả các giả thuyết phủ định, thật quả là công việc gian khổ. Nhưng sau nhiều cố gắng đó, người ta đi tới chắc chắn, tới chân lý, ta sẽ thầy một trong những niềm vui lớn nhất con người được hưởng và ý nghĩ rằng ta sẽ đóng góp vào sự phồn vinh của đất nước lại làm cho niềm vui đó thêm sâu sắc.

Nhà vật lý học Anxtanh cũng có lời khuyên học trò của mình: Với công việc của chúng ta, cần phải có hai điều kiện, một là cần phải có một đức tính kiên nhẫn không bao giờ giảm sút và hai là cần phải luôn luôn sẵn sàng (đổ xuống biển) cái mà chúng ta phải bỏ phí bao nhiêu thời gian và lao động.

Chân lý bao giờ cũng đi trước thời đại và mâu thuẫn với tri thức của thời đại.

Lịch sử khoa học đã chứng tỏ tất cả những phát minh khoa học đều gặp phải sức phản kháng đôi khi rất gay gắt của dư luận đương thời.

Nhưng nhà khoa học phải có đầy đủ tinh thần dũng cảm để đấu tranh với những tiên kiến lạc hậu đó. Họ không lùi bước trước những kết luận cực đoan và dám nói ra một cách thành thực, minh bạch quan điểm riêng mà mình tin là gần chân lý, không hề sợ hậu quả.Các nhà khoa học chân chính đều để chân lý lên trên tất cả.

Là một giáo sĩ, anh thanh niên Brunô tình cờ gặp được một quyển sách (Bàn về sự chuyển vận của thiên thể) của Côpécních, nói về trái đất xoay quanh mặt trời. Đêm đêm, anh nhìn lên bầu trời quan sát các ngôi sao và suy nghĩ về những thế giới xa xăm, vô tận. Anh giác ngộ về học thuyết Côpécních, rời bỏ nhà thờ, đi tuyên truyền cho học thuyết này, bất chấp sự đe doạ của giáo hội lúc đó đang ủng hộ thuyết điạ tâm (mặt trời xoay quanh trái đất) của Kinh Thánh. Brunô đã phát triển một cách sáng tạo thuyết Côpécních, sớm khẳng định rằng mặt trời chỉ là một trong vô số ngôi sao và trái đất chỉ là một trong nhiều hành tinh trong vũ trụ. Do sự phản bội của người quen, Brunô bị bắt. Nhà thờ tra tấn, dụ dỗ, mong anh từ bỏ thế giới quan của Côpécních nhưng không làm lay chuyển được lòng tin vào chân lý khoa học của anh. Sau 7 năm giam cầm, toà án nhà thờ tuyên án thiêu sống anh. Đừng trong đám nửa, Brunô vẫn cất cao giọng: Thiêu chết cũng không thể phủ định. Hậu thế sẽ đánh giá ta.

Từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, quan niệm về không gian, thời gian và khối lượng vật chất không biến đổi của Niutơn đã chi phối toàn bộ vật lý học cổ điển hàng trăm năm.

Tới đầu thế kỷ XX, khi Anxtanh đưa dần những luận điểm của mình về tương đối luận, không gian, thời gian và khối lượng cũng biến đổi, ông đã vấp phải sự chống đối gay gắt của lực lượng khoa học đương thời. Số người hiểu được lý thuyết tương đối chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Ông phải đương đầu với Liên đoàn chống Anxtanh gồm một số nhà khoa học, trong này có cả giải thưởng Nôben. Họ tổ chức những cuộc hội thảo công khai để tranh luận về lý thuyết tương đối, để công kích Anxtanh về mặt chính trị, coi tương đối luận như biểu hiện của tinh thần bônsêvich trong vật lý học. để vu cáo Anxtanh là ăn cắp tài liệu người khác, là đưa ra một công trình vô nghĩa, là có hành động tuyên truyền cá nhân. Ngoài ra còn có những báo đăng bình luận, thơ ca công kích Anxtanh và công trình của ông. Nhưng Anxtanh hoàn toàn tin tưởng vào chân lý mình nắm trong tay.

Trước những tấn công đó, ông rất bình tĩnh và nói với một người bạn: Tôi có cảm giác của một người nằm trên một cái giường rất tốt nhưng thỉnh thoảng lai bị rệp cắn.

Rõ ràng nghiên cưu khoa học cũng đòi hỏi lòng dũng cảm của người chiến sỹ trên mặt trân. Chiến đấu chống điều ác và sự bất công, chiến đấu chống điều ác và sự bất công, chiến đấu chống lại các thế lực đen tối của thiên nhiên để đem lại sự sáng sủa cho đời sống con người đều cần tới tinh thần dũng cảm.

Trong mọi lao động, đều có những khó khăn phải vượt. Tìm hiểu những nguyên nhân của khó khăn, suy nghĩ cách vượt khó để tới giải pháp, không khác gì đi tìm chân lý của sự vật.

Muốn tới chân lý đó, cũng như các nhà khoa học phải dũng cảm đấu tranh với nề nếp suy nghĩ làm ăn theo lối cũ của bản thân và của hoàn cảnh.

Đúng như lời nói của một nhà triết học: Nếu lý trí và tâm hồn của người nào còn lành mạnh thì quả tim người đó phải rung động trước chân lý.

Một đặc điểm của con người có tư cách là phải tỏ lòng dũng cảm ở chỗ giữ vững vị trí còn hi vọng trong khi xung quanh mình người ta đã thôi chỉ bỏ rơi.

Dũng cảm trí tuệ thể hiện ở chỗ ham suy nghĩ về các vấn đề, suy nghĩ về nguyên nhân và hậu quả của hiện tượng, là không bằng lòng với sự hiểu biết phiến diện mà thích đi sâu vào sự kiện để nắm bản chất của nó.

Từ ngàn xưa người ta đã nuôi ong, đã biết tổ chức xã hội của ong, biết nhiệm vụ và hoạt động của từng loại ong.

Nhưng chỉ có giáo sư Frich năm 1930 mới tìm hiểu tỉ mỉ hoạt động của từng loài ong trong đàn, do đó đã phát hiện ra hiện tượng (múa) của ong thợ để thông tin cho đồng bọn biết vị trí chính xác của địa điểm lấy thức ăn. Từ phát minh này, đã dần dần thành hình các nghành khoa học mới đang phát triển mạnh như tập tính học, thông tin sinh học… bắt đầu có nhiều ứng dụng trong các ngành thông tin liên lạc, khai thác động vật có ích, phòng ngừa động vật có hại… Vừa đây năm 1973, ông được giải thưởng Noben về phát minh trong lúc đang nghỉ hưu.

Nhà kí sinh trùng học Đặng Văn Ngữ, muốn thử nghiệm hiệu quả của Vacxin phòng sốt rét do ông sáng chế, đã không ngại nguy hiểm tự thân đến thực địa chiến trường để tiến hành thí nghiệm và ông đã hy sinh trong thời gian chiến tranh giải phóng vừa qua. Là một nhà khoa học chân chính, ông muốn đích thân kiểm nghiệm giả thiết của mình, bất chấp nguy hiểm.

Có dũng cảm trí tuệ là không cam tâm chịu dốt nát, là cố gằng vượt mọi khó khăn vật chất và tinh thần để học tập.

Thiên nhiên không dễ dàng lộ bí ẩn cho con người. Phải trầy trật gian khổ mới có thể biết phần nào về nó. Mỗi kiến thức khoa học thu được đều phải đổi bằng mồ hôi có khi bằng cả máu của các nhà bác học.

Xã hội loài người tiến nên không ngừng là nhờ tích luỹ ngày càng nhiều kiến thức của mỗi thế hệ. Trẻ em hiện thông minh hơn, biết nhiều hơn người lớn trước kia, chính là do sự tích luỹ không ngừng kiến thức của nhân loại.

Câu nói của Lênin hồi đầu thế kỷ “Học, học nữa, học mãi” có tính chất tiên tri. Cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật ngày nay với tốc độ phát triển vũ bão của nó đang buộc mỗi người lao động trên trái đất, để thích nghi với hoàn cảnh hiện tại, phải học tập cả đời.

Người ta kể rất nhiều gương cầu học của ông cha ta. Có người không có tiền mua dầu thắp phải bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng để đọc sách ban đêm. Có người quét lá đa ở chùa để đốt lấy ánh sáng (tiến sỹ Châu Trí). Có người không có tiền mua giấy bút phải đến dựa cổng trường, khi đi chăn lợn, để nghe và nhẩm thuộc bài giảng của thầy giáo (tiến sỹ Thừa Cung).

Sử có kể tiến sỹ Lương Thế Vinh thời Lê Thành Tông, sau khi cáo quan về nghỉ ở quê nhà, thấy việc đo đạc ruộng đất chính xác là một yêu cầu cấp bách, tuy bấy giờ đã hơn 60 tuổi, vẫn quyết tâm lao vào nghiên cứu toán học. Và một năm sau, ông viêt xong công trình “Đại thành toàn pháp” nói về cách tính của các hình học phẳng, và sau hai năm, sáng chế ra chiếc bàn tính giúp việc tính toán diện tích, sản lượng nhanh chóng. Nhân dân gọi ông là Trạch Lường (tiến sỹ về đo đạc).

Về tinh thần cầu học, còn có thể lấy Mác làm thí dụ. Mác đọc được phần lớn tiếng các nước châu Âu, viết được tiếng Đức, Pháp và Anh. Nhưng tới khi hơn 50 tuổi, vì muốn đọc tác phẩm Nga nguyên bản, Mác đã giành 6 tháng kiên trì học Nga văn và sau đó đã đọc thông thạo các tác phẩm của Pútkin, Gôgôn, Tsêdrin…

Dũng cảm trí tuệ còn là bảo vệ đến cùng mục đích nhân đạo của khoa học. Khoa học thành hình với sự tiến hoá của nhân loại, cũng chỉ có mục đích thoả mãn yêu cầu về trí tuệ và vât chất của con người. Nhà khoa học dũng cảm là người phản đối việc sử dụng thành tựu của khoa học vào mục đích phá hoại hạnh phúc của nhân loại, trái với lý tưởng cao cả của khoa học.

Ông tổ của điều khiển học, N.Uynne, giám đốc một viện nghiên cứu ở Mỹ, khi được tin Mỹ dùng điều khiển học trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đã tuyên bố sẽ không tiếp tục nghiên cứu theo hướng này vì phát minh khoa học của ông đã bị sử dụng cho ý đồ đen tối, vô nhân đạo.

Nhà toán học kiêm triết học Bectơrăng Rơtsen đã thành lập toà án quốc tế để nên án tội ác của chính phủ Mỹ ở Việt Nam, cũng là thí dụ điển hình về lòng yêu chân lý, dũng cảm trí tuệ của một nhà bác học chân chính.

Ngại khó khăn gian khổ trong lao động, không ham thích học hỏi thêm, lười suy nghĩ, không phân phải trái ở bản thân và ở người khác để có lời nói và hành động thích đáng, dựa dẫm vào ý kiến người khác, hành động không phải theo ý nghĩ của mình mà theo ý nghĩ của người. Đây là các biểu hiện ở mức độ khác nhau của một trí tuệ thấp kém. Các thái độ này đều xa lạ với người lao động chân chính mà lại càng xa lạ với nhà khoa học.

Trí tuệ là kết quả hoạt động của bộ não. Lười trí tuệ sẽ dẫn tới sự ngừng hoạt động của cơ quan này tức sự “teo não”. Đây là hiện tượng nguy hiểm cho sự phát triển của con người và sự tiến bộ của xã hội, khẳ năng trí tuệ và bản năng xã hội là hai nhân tố quan trọng bảo đảm sự sinh tồn và phát triển của nhân loại.

Phải quan tâm bồi dưỡng lòng yêu chân lý và dũng cảm trí tuệ lúc còn ở nhà trường.

Thầy giáo phải tìm mọi biện pháp gây lòng ham muốn học tập, sưu tầm kiến thức mới của học sinh, phải rèn luyện cho học sinh thói quen nghiên cứu cá nhân, suy nghĩ độc lập, tự mình phát hiện lấy kiến thức mới.

Sinh hoạt đội thiếu niên và đoàn thanh niên phải bảo đảm tự do suy nghĩ thực sự, làm sao để có uy quyền độc nhất trong buổi họp không phải là cá nhân nay hay cá nhân kia mà là lẽ phải, chân lý.

Chỉ có bằng cách đó, người thanh niên mới có được lòng yêu chân lý và dũng cảm trí tuệ khi bước vào đời.

Liên kết đến đây

Xem thêm liên kết đến trang này.