Khoa học hóa cách suy nghĩ, làm việc, học tập/Chương 1.6

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

 Mục lục - Lời mở đầu - Chương 1 - Chương 2 - Chương 3 - Chương 4

 

Phần: 1.1 - 1.2 - 1.3 - 1.4 - 1.5 - 1.6 - 1.7 - 2.1 - 2.2 - 2.3 - 2.4 - 2.5 - 3.1 - 3.2 - 3.3 - 3.4 - 3.5 - 3.6 - 4.1 - 4.2 - 4.3 - 4.4 - 4.5 - 4.6

KHIÊM TỐN VÀ RỘNG LƯỢNG

“Người khoa học khác với người ngu dốt ở chỗ người khoc học rộng lượng với người ngu dốt còn người ngu dốt lại không rộng lượng với người khoa học”

Kiến thức khoa học tựa như một lâu đài ma loài người xây đắp cao dần qua các thế hệ. Một nhà khoa học chân chính không bao giờ coi quá trình tìm hiểu bí mật thiên nhiên có một cách giải quyết cuối cùng.

Nhà triết học cổ Hi Lạp Sôcrát đã có một câu nổi tiếng: Tôi biết rõ rằng tôi chẳng biết gì hết cả. Và ông đi khắp nơi tìm những người có học thức để học hỏi thêm. Ông cho rằng mọi sự hiểu biết lớn lao nhất của một người chẳng qua chỉ là một hạt cát trên bãi sa mạc tri thức mênh mông.

Nhà vật lý học Niutơn đã so sánh mình như một đứa bé chơi trên bở biển, nghịch những hòn sỏi nhẵn và vỏ sò đẹp, nhưng trước mắt là một bể chân lý bao la.

Hiện nay, với cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật trên thế giới, kiến thức khoa học đã tăng quá nhanh, cứ sau năm năm lại có sự đổi mới khoảng phần nửa vố kiến thức. Người nghiên cứu nào cũng phải tự ti với số vốn kiến thức hiện có của mình.

Nhà vật lý học Kapitsa, một giải thưởng Nôben, đã nói: hạnh phúc của tôi là tới cuối đời mình còn hiểu nổi được học thuyết vật lý lúc đó.

Các nhà bác học càng lớn càng thấy mình phải khiêm tốn là lẽ đương nhiên.

Nhà sinh lý học Clôt Becna đã nói với môn đồ: hãy đem lời phê bình thầy, hãy mang cho thầy hàng tá lời phê bình.

Lênin cũng là mẫu mực của tính khiêm tốn.

Trong buổi gặp gỡ với nhà địa chất học Coócsunốp Lênin đã nói: thật lạ, nhiều người không hiểu tại sao cứ cho rằng chủ tịch hội đồng uỷ viên nhân dân và các uỷ viên nhân dân thì cái gì cũng biết, thật là một điều vô lý tai hại. Chúng tôi thì biết ít, biết rất ít, biết ít đến phải xấu hổ, và chúng tôi với các đồng chí càng năng gặp nhau bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.

Lênin còn có lời khuyên thanh niên như sau: Nếu tôi biết rằng tôi hiểu biết ít, tôi sẽ tìm cách để hiểu biết hơn, nhưng nếu người nào tuyên bố là người cộng sản và không cần biết những điều cơ bản nào nữa thì anh ta không có chút gì của người cộng sản.

Ta không nên quên là thư viện của Lênin có tới 9.000 cuốn sách của 15 thứ tiếng và Lênin biết 9 ngoại ngữ: Anh, Đức, Pháp, Ý, Ba Lan, Thuỵ Điển, Tiệp, cổ Hi Lạp, La - Tinh và thường đọc các tác giả cổ điển Tây Âu theo nguyên bản.

Tính khiêm tốn của nhà khoa học không cho phép mình được nghỉ ngơi trên những thành tích đã đạt.

Paxtơ đã vì nhà bác học như một du khách, khi đã chiếm được điểm cao rồi, thì từ đó tầm mắt của họ phải luôn hướng về những chân trời mới để tiếp tục khám phá, phát triển không ngừng.

Nhà vật lý học Giôliô Curi, vài năm sau khi được giải thưởng Nôben vẫn kiên trì nghiên cứu và phát minh ra cái pin nguyên tử đầu tiên cho nước Pháp, đồng thời ông còn tích cực hoạt động trong hội đồng hoà bình thế gới cho tới khi mất.

Nhà nhân chủng học Dubois tới 80 tuổi, còn xuất bản công trình nghiên cứu và hoạt động khoa học tích cực.

Nhà vật lý học Alếcxanđrốp gần 80 tuổi, đã ba lần được tặng danh hiệu anh hùng lao động Liên Xô vì thành quả nghiên cứu liên tục của mình.

Khiêm tốn là coi trọng tất cả các bạn đồng ngiệp bất kỳ tuổi tác của họ.

Trước hết phải coi trọng các nhà khoa học tiền bối vì sự đóng góp trước kia và hiện nay của đội ngũ này. Trong nghiên cứu khoa học, năng suất lao động thường tăng với tuổi.

Năm 1956, ở Cộng hoà dân chủ Đức đã tiến hành đánh giá hoạt động khoa học của 158 nhà nghiên cứu thuội nhiều lĩnh vực: toán học, sinh học, địa chất học, thuỷ văn, y học, vật lý học, hoá học… căn cứ vào số lượng công trình thông báo hàng năm, ở tuổi từ 20 tời 80. Kết quả như sau:


Tuổi Số công trình/năm 20 29 9 30 39 20 40 59 24 60 79 18 80 13

Như vậy, năng suất lao động khoa học cao nhất ở tuổi 40 - 60 và trên 80 tuổi năng suất vẫn còn hơn lữa tuổi 20 - 29.

Niutơn đã đánh giá đúng mức công lao của các nhà khoa học đi trước trong câu nói bất hủ: Sở dĩ tôi nhìn xa là vì được ngồi trên vai những người khổng lồ.

Anxtanh, người phát minh ra tương đối luận, cũng có nói: Đời sống tinh thần và vất chất của tôi tuỳ thuộc lao động của tất cả mọi người đương thời và tổ tiên tôi, và tôi phải cố gắng đóng góp cho mọi người phần tương xứng với phần tôi đã nhận và còn nhận.

Hiện nay, tình trạng không khiêm tốn khá phổ biến.Có người quá tự mãn với số vốn kiến thức sẵn có, không học hỏi gì thêm. Có người đạt tới học vị nào đó cho là “công thành danh toại” không cần nghiên cứu nữa. Không ít người trẻ tuổi coi thường bậc đàn anh, cho là đã lạc hậu với thời đại. Có người thuộc thế hệ đi trước không quan tâm đúng mức tới các hậu sinh, cho họ là không hiểu biết gì nhiều.

Tất cả biểu hiện khiêm tốn trên đây, cản bước tiến bộ của mỗi người, và trong quan hệ đồng nghiệp, đào sâu thêm hố ngăn cách các thế hệ khoa học.

Mâu thuẫn giữa các thế hệ lao động là mâu thuẫn xảy ra ở mọi thời đại mà công tác quản lý phải quan tâm giải quyết thích đáng.

Tính khiêm tốn đòi hỏi người lãnh đaọ tập thể khoa học phải biết đánh giá không thiên vị thực tài của từng người thừa nhận sự đóng góp của họ và có trách nhiệm hướng dẫn tận tình công việc của tập thể triển khai theo chiều hướng có lợi nhất. Ngược lại, người cộng tác phải thấy sự cần thiết trong phối hợp, trong tổ chức và có thái độ trân trọng người nhiều tuổi có kinh nghiệm.

Bao trùm lên tập thể phải là một không khí dân chủ, bình đẳng thật sự trong sinh hoạt. Phải làm sao trong tập thể, tuổi tác, cấp bậc, vị trí xã hội không che lấp chân lý khoa học. Chỉ có căn cứ khoa học mới có uy quyền cao nhất đối với người khoa học.

Không nên lẫn tình khiêm tốn thật sự với khiêm tốn giả tạo. Khiêm tốn thật sự là thể hiện tinh thần trách nhiệm cá nhân, nếu đúng đắn sự đóng góp của mình cho công trình khoa học.

Khiêm tốn giả tạo là, dưới danh nghĩa tránh đề cao cá nhân, không công khai nhận trách nhiệm cá nhân trong công trình. Từ đó mới có nhiều thông báo khoa học thiếu tên tác giả mà chỉ có tên bộ phận hay cơ quan.

Giá trị khoa học của các thông báo này giảm đi phần lớn. Các đồng nghiệp cùng ngành muốn tìm hiểu thêm về phương pháp nghiên cứu, về biện luận trong báo cáo không biết hỏi ai. Việc thành lập và tra cứu phiếu nghiên cứu cũng có nhiều trở ngại.

Cách khiêm tốn giả tạo này tạo điều kiện cho việc xoá bỏ tinh thần trách nhiệm cá nhân của người nghiên cứu và hạn chế sự phát triển của khoa học.

Trong một thông báo nào, dù đó là công trình của một tập thể khoa học, cũng phải nêu tên người tự tay một tập thể khoa học, cũng phải nêu tên người tự tay viết báo cáo. Cách nêu tên các người đóng góp vào công trình thì tuỳ mức độ tham gia của từng người: có người viết từng phần cho báo cáo chung, có người giúp về kỹ thuật đơn thuần, có người gợi ý đề tài, có người đọc bản thảo để góp ý kiến sửa chữa…

Tính khiêm tốn phải kèm theo tính rộng lượng. Nhà khoa học chân chính càng chặt chẽ với vốn kiến thức của mình càng phải rộng lượng với vốn kiến thức của các đồng nghiệp, nhất là các đồng nghiệp trẻ tuổi, rộng lượng với trình độ khoa học thấp kém của người lao động bình thường.

Có nhà triết học đã nói: người khoa học rộng lượng với người ngu dốt, còn người ngu dốt lai không rộng lượng với người khoa học.

Kiến thức khoa học ngày càng nhiều. Khoa học càng phân hoá thành nhiều lĩnh vực với cuội cách mạng khoa học và kỹ thuật hiện đại. Hồi đầu thế kỷ, khoa sinh học chỉ gồm khoảng 10 ngành, hiện đã phân ra 25 ngành và đến năm 2000 sẽ có thể tới 30 ngành.

Hiện nay, một nhà khoa học không hiểu nổi một đồng nghiệp ở lĩnh vực khác, tựa như hồi đầu thế kỷ một người “ngoại đạo” khoa học không hiểu nổi được người khoa học.

Rộng lượng trong khoa học là hiểu được những nhược điểm của những người khoa học trẻ tuổi mà tận tình giúp đỡ sự khắc phục.

Người thanh niên mới vào nghề còn thiếu không nhiều thì ít các đức tính cần thiết cho nghiên cứu khoa học. Người thầy cần có sự chỉ dẫn chu đáo, giúp đỡ việc bồi dưỡng này. Rộng lượng là vui mừng và khuyến khích phát triển một ý niệm mới của người đồng nghiệp trẻ tuổi dù có mâu thuẫn với quan điểm của mình.

Lịch sử khoa học đã có nhiều thí dụ chứng tỏ nhiều ý niệm mới là mầm mống của những phát minh quan trọng. Nếu các uy quyền khoa học thiếu tính rộng lượng thì khoa học sẽ bị kìm hãm. Sự kiện Summenvai là một thí dụ điển hình.

Thời nào cũng có mâu thuẫn giữa các thế hệ khác nhau về tuổi tác và ngay cả sự ghen tị trong đội ngũ cùng lứa tuổi.

Tuy nhiên, mỗi người đều phải quan niệm là chỉ nguyên việc có sự đóng góp phong phú của các bộ não trẻ cũng là một bảo đảm của tiến bộ khoa học, khoa học cần không ngừng những quan điểm mới, quan điểm cách mạng để tiến lên.

Paxtơ không ưa gì người Đức. Từ khi nổ ra chiến tranh Pháp - Đức năm 1870, nhiều dự định nghiên cứu của ông bị xếp lại. Ông đã trả lại huân chương do chính phủ Đức tặng. Một bác học Đức trẻ hơn ông hàng chục tuổi, Rôbe Cốc luôn công kích và chế giễu ông trong hội nghị quốc tế, trên báo chí, về phương pháp làm giảm độc tính vi khuẩn của ông. Nhưng khi được tin Cốc tìm ra thuốc chữa bệnh lao. Đối với ông chỉ có thành công trong khoa học là đáng kể.

Nhà hoá học Sêmiônốp cũng nói: khi học trò tôi trở thành đối thủ của tôi, tôi rất phấn khởi vì điều này chứng tỏ tôi đã đào tạo có kết quả người kế tục sự nghiệp có chất lượng.

Suy cho cùng thì mục đích chính của nghiên cứu khoa học không phải là thành công hay thất bại trong thực nghiệm của người này hay người khác mà làm thế nào để khoa học tiến lên.

Tính rộng lượng trong khoa học không phải là xuê xoa các sai lầm khoa học. Đối với sai lầm trong khoa học của người khảo cứu trẻ tuổi, ta phải phân loại ra sai lầm do thiếu kiến thức, do dụng cụ sai lệch và sai lầm do phương pháp thao tác thiếu nghiêm túc, sai lầm có ý thức vì nguyên nhân nào đó. Phải rộng lượng với hai loại sai lầm sau.

Hiện nay, còn có hiện tượng hẹp hòi trong hàng ngũ khoa học.

Có thầy còn bực bội vì sự dốt nát của học trò. Có người con ghen tị với thành quả của đồng nghiệp, thậm chí vui mừng về thất bại của động nghiệp.

Những biểu hiện này đều trái với tinh thần khoa học. Người xưa đã có lời khuyên: hãy chỉ tìm những ưu điểm của người khác để học tập và tìm những khuyết điểm của bản thân để sửa mình.

Liên kết đến đây

Xem thêm liên kết đến trang này.