Sử thuyết họ Hùng/Bài 5
E - Trống đồng và quê hương dịch lý[sửa]
-
1
–
Điểu
thú
văn.
- Trên mặt tất cả trống đồng loại 1 tức loại xưa nhất, đều được đúc theo khuôn mẫu: trung tâm là mặt trời, rồi đến các vòng đồng tâm khắc hình chim và nai, sau đó là cảnh sinh hoạt, đánh trống đồng, đo bóng mặt trời, cảnh chiến binh trên thuyền..v.v.
Mặt trời được người Việt cổ coi là nguồn sáng và nguồn sống cho muôn loài, với quan niệm cha trời mẹ đất, tổ tiên ta đã hiểu rõ những gì thu hoạch được từ đất như củ, quả … không thể có được nếu không có ánh nắng mặt trời, điều này thật đời thường nhưng cũng rất khoa học, lúc đó người ta làm gì biết đến diệp lục tố và sự quang hợp như chúng ta ngày nay, nhưng bằng sự quan sát và so sánh việc được mùa và không được mùa có liên quan chặt chẽ tới sự chiếu sáng của mặt trời người xưa đã hiểu được có sự phối hợp giữa trời và đất để ban của ăn nuôi sống con người từ đó hình thành quan niệm lưỡng hợp, một phía là cái cụ thể có thể nắm bắt là đất, một phía ta biết rõ ràng có đấy nhưng không thể nắm bắt đó là những gì đến từ trời, dần dần tổng kết thành các qui luật trời đất có âm, có dương, ý niệm khởi nguồn của Kinh Dịch.
Với quan niệm mặt trời là nguồn sáng, cổ nhân coi mặt trời là khởi nguồn của văn minh, của sự sáng suốt, vì không có ánh sáng mặt trời thì bóng tối che phủ, không thể phân biệt được cao thấp, xấu đẹp, không gian trở thành một khối hỗn mang và trong màn đêm đó không biết bao sự rình rập của quỷ dữ, của ác thú, sinh mệnh con người mong manh biết bao nhiêu, và mọi vật chỉ trở nên sống động thực sự khi mặt trời ló dạng, từ đó con người sùng bái mặt trời. Với người Việt sự sùng bái đã gần như một ý thức về tôn giáo: đạo thờ Trời, thờ ông Thiên và hình ảnh biểu tượng là mặt trời. Với vị trí là tâm điểm trên trống đồng, mặt trời là trung tâm của vũ trụ. Điều này chắc mới dừng ở ý niệm siêu hình, nhưng trong đó ta đã thấy thấp thoáng bóng khoa học rồi.
Trên trái đất không biết bao nhiêu loài thú, tại sao chim và nai lại được coi trọng ngang hàng với con người được kết hợp với người để tạo thành thế giới 3 thành phần trên mặt trống, coi như hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ?
Ta trở lại với Dịch Lý. Mọi người đều nhất trí coi Hà và Lạc là một phần của Dịch Lý, hoặc là cách diễn đạt Dịch Lý thông qua các nút số, một loại diễn đạt khác với Dịch Lý vạch quẻ của Bát quái. Vậy Hà là gì? và Lạc là gì? Trải qua mấy ngàn năm, các cuộc tranh luận của các bậc trí giả “nhìn xa trông rộng” vẫn còn tiếp tục xãy ra, nào là long mã, nào là thần qui; người thì bảo là thần vật xuất hiện ở Hoàng Hà, rồi Mạnh Hà, rồi Lạc Thủy, … sở dĩ như vậy là tại các vị nhìn một vật ngay trước mắt qua “kính viễn vọng” nên hậu quả là …. vẫn còn cãi nhau. Thật ra khi ta nhìn bằng mắt trần thì sự việc trở nên đơn giản: Hà nghĩa là Trời; Lạc là biến âm của Lục nghĩa là Đất, Hà Lạc là Trời và Đất … rất rõ ràng: chính xác phải gọi là Hà Thư – Lạc Đồ, chứ không thể gọi ngược như trước đây được;.hà thư tức thiên thư, lac đồ cũng là điạ đồ Sự liên quan giữa trống đồng và Dịch Lý là:
Trời = Hà → Hạc: chim Hạc hay Hồng Hạc. Đất = Lạc → Lục → Lộc: con nai.
Thông điệp trên mặt trống đồng rất rõ ràng: Mặt trời là trung tâm và ở các vòng đồng tâm kế tiếp nhau là Hạc – Nhân – Lộc, tức trên là trời, giữa là người, dưới là đất nối tiếp “chạy” quanh mặt trời.
- Từ mối tương quan giữa Hà- Lạc và trống đồng này đủ để ta khẳng định : ‘Dân trống đồng’ là chủ nhân đích thực của dịch học ; như vậy ‘tứ thánh ‘ Phục Hy Văn vương Chu công và Khổng tử không thể nào sống ở bắc Hoàng hà (hiện nay )... vì ở đấy không tìm thấy trống đồng thời cổ .
- Và cũng Từ sự việc này gợi ra ý kiến là: chữ “tượng hình” không phải là loại chữ cổ xưa nhất mà là sự tiếp nối một loại chữ khác có trước tạm gọi là chữ “nguyên hình”. Ta liên tưởng trong Kinh Dịch phần Thuyết Quái, Khổng Tử viết: “… Ngày xưa họ Bào Hy ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xem thế đất … quan điểu thú chi văn …” rồi tổng kết lại thành các qui luật Dịch Lý, câu ‘quan điểu thú chi văn’ được hiểu là: ‘nhìn các nét “văn’ trên (mình) chim, thú …’ Nay ta có thể hiểu khác đi là … đã có một loại chữ là “điểu thú văn” tức chữ “nguyên hình”từ trước khi họ Bào Hy tác dịch?
Trong bối cảnh Văn hoá Á đông ta có thể tìm thêm 4 chữ “nguyên hình” nữa ngoài các chữ “chim hạc” và “con nai”(= Trời và Đất).
mất hình
Người xưa đã dùng những con vật nổi trội ở 1 vùng đất như 1 dạng thức chữ: chữ “nguyên hình” để chỉ 4 phương: (Trung tâm chính là nơi sinh tụ của cộng đồng người cổ đã tạo nên Dịch Lý)
1. Hướng Xích đạo: là vùng nhiệt đới tượng trưng bằng con Hổ, Hổ là biến âm của Hoả là lửa – tính của lửa là nóng.
2. Ngược với lửa là nước, nơi vùng nước này có rất nhiều con Sấu, Sấu là biến âm của Xíu là nước (âm Quảng Đông). trong truyền thuyết lịch sử Việt Nam, nó là con thuồng luồng, một loài thủy quái hại người, sau này do biến cố khí hậu loài sấu ở phía Bắc (cứ tạm gọi như tên hiện nay) bị tiêu diệt nên người xưa thay thế bằng con rùa tức Qui.
3. Hướng đông là biển nên biểu tương bằng thần vật có công hút nước làm mưa mà người xưa gọi là Rồng hay Long. Trong văn hoá Việt – Hoa, Rồng được coi là chúa tể cai trị thế giới biển cả.
4. Ai đã từng học Dịch Lý đều biết quan điểm hướng đông là phương động, tượng trưng bởi Quẻ Chấn cũng gọi là Quẻ Thìn tức quẻ con rồng; chính xác phải gọi là hướng động vì đông là biến âm của động. Và theo nguyên lý đối lập của Dịch, phương tây là tịnh như trong Thuyết Quái của Dịch: cứng mềm cọ sát sinh ra động tịnh.
Phương đông: mềm mà động
Phương tây: cứng mà tịnh.,định
Việt
ngữ
có
từ
kép
“định
đoạt”
để
chỉ
phương
tây;định
là
chỉ
bên
không
thay
đổi
,
đoạt
là
tên
khác
của
quẻ
đoài
phương tây là phương tịnh và ở đó có rất nhiều voi, nên con voi trở thành chữ “nguyên hình” là tịnh, con tịnh. Như thế ta có thể coi chữ “nguyên hình” là loại chữ tối cổ, đó cũng là điểm xuất phát của chữ “tượng hình” sau này.
Tổng số ta có được 7 “chữ “:
- Mặt trời là trung tâm.
- Hạc = trời.
- Lộc = đất.
- Hổ = phương nóng, xích đạo.
- Sấu, Qui = phương nước, ngược với phương nóng.
- Long, Rồng =phương đông.
- Tịnh = phương tây.
Xác định như trên ta có thể khẳng định đất nướcTrung Hoa hiện nay không thể là quê hương của Dịch Lý được vì không thể tìm được vùng đất nào của Trung Hoa mà phương đông là biển và phương tây có voi. Chỉ có miền Trung của Việt Nam mới hội đủ tính chất chỉ định của 6 chữ “nguyên hình” hay “điểu thú văn” như phần trên. loài Hổ đông dương ở Trường Sơn và Nam Lào đã nổi tiếng từ lâu rồi, về hướng bắc thì đồng bằng Bắc Bộ vài ngàn năm trước là vùng đầm lầy chắc chắn lý tưởng cho loài sấu. Về hướng đông là biển, đúng là quê hương của rồng và hướng tây… chỉ tên nước ‘Lào triệu voi” cũng đủ minh chứng cho sự khẳng định trên, Trong lãnh vực tâm linh, tất cả các đền, miếu của Việt Nam đều có hình Hạc hay Hồng Hạc đứng trên mai Rùa tượng trưng cho Trời và Đất như thế đã đủ 6 con vật tượng trưng cho 6 cõi của 1 không gian 3 chiều.
Dịch Lý đã là tài sản của cả nhân loại, phát nguyên từ đâu không phải là điều quan trọng đối với thiên hạ; nhưng đối với người Việt Nam thì khác, nếu không thể làm sáng tỏ về quê hương Dịch Lý thì mắc lỗi với tiền nhân. Người xưa đã lao tâm khổ tứ biết bao mới có thể ký thác được những giá trị vĩnh hằng vào trong đấy làm tài sản cho con cháu vào đời, quá khứ không phải qua đi là hết, dòng linh khí từ quá khứ sâu thăm thẳm vẫn liên tục chảy về hiện tại tạo thành sức mạnh tâm linh vô song cho mỗi người, dù tiếp nhận trong vô thức; dòng linh khí đó trở thành bản lĩnh sống, thành năng lực bẩm sinh của trí tuệ; đấy cũng là lý do để ta nỗ lực vượt bực mong tìm được đích xác nguồn gốc dòng giống của mình; xác định cho được bản quyền dân tộc trên Dịch Lý, một siêu phẩm của minh triết và khoa học.
2 - Dic̣h học hình tượng.[sửa]
Con người chúng ta tư duy bằng 2 hệ thống dấu hiệu chính:
Hệ thống dấu hiệu âm thanh và hệ thống dấu hiệu hình ảnh.
- Đơn vị của hệ thống dấu hiệu hình ảnh là tự hay chữ, tự nối kết với nhau thành: văn; còn đơn vị của hệ thống dấu hiệu âm thanh là tiếng,nối kết nhau thành: điều, ta hay dùng như một từ kép ‘điều tiếng’.
- Gọi là 2 hệ chính vì còn các hệ thống dấu hiệu cá biệt khác như: hệ thống chữ nổi của người mù được cảm nhận bằng xúc giác và hệ thống dấu hiệu cử chỉ dành cho người câm.
- Trước khi có văn tự con người vẫn có tư duy, khám phá và chuyển giao thành qủa tức vẫn có tiến bộ.Như đã trình bày: Dịch học đã tuần tự có 3 hệ thống:
- Dịch lý nút số.
- Dịch lý vạch qủe.
- Dịch lý bằng văn tự.
- Dịch học là tư duy của người họ HÙNG vậy khi chưa có dịch nút số con người suy nghĩ dựa trên cơ sở nào?
- Trước dịch học nút số đã có 1 nền dịch học khác, đó là dịch lý “hình tượng” tức lấy chính các hình ảnh và hiện tượng tự nhiên làm dịch tượng ̣để tư duy.
- Dịch lý thô sơ dựa trên các hình tượng đã hệ thống hóa sau:
- mất hình.
- Khi tìm hiểu về dịch lý ta thường nói: Càn là trời, khôn là đất, ly là lửa. ..,như thế là đã đi ngược tiến trình của dịch học, đúng ra ta phải nói : trời là càn, khôn là đất...., vì từ những hình tượng có thực trong cuộc sống người ta mới nén thông tin vào trong các dịch tượng tạo thành hệ thống dấu hiệu làm công cụ cho tư duy.
- Dịch học hình tượng lấy trời và đất hay bầu trời và qủa đất để biểu thị cho không gian. Lấy mặt trời và mặt trăng để biểu thị cho ngày và đêm tức chỉ thời gian. Bốn hình tượng này được đặt nằm trên giao điểm của 2 hình tròn và vuông ý ch̉i vũ trụ bao la không bờ bến.
- 4 qủe còn lại biểu diễn cho cái không gian hẹp tức khuôn khổ trong đó con người ta sinh sống.
- - Dich học nói: tại thiên thành tượng tại địa thành hình.
- Hình ảnh biển cả và đất liền được dùng để tượng trưng cho mặt địa cầu là cái nền chở đỡ và dưỡng nuôi loài người, Đất và nước luôn đi đôi trở thành từ kép ‘đất nước’đồng nghĩa với tổ quốc của mỗi người.Hiện nay người ta cho là quẻ Đoài là cái hồ thực ra không phải vậy; khi nói Đoài là hồ cấn là núi là đã giảm tầm cỡ của dịch lý xuống rồi đấy; kích cỡ của cái hồ hay qủa núi có thấm tháp gì so với sự mênh mông của mặt địa cầu nên không thể nào trở thành một nguyên tố của dịch học, chỉ có biển cả hay đại dương, đất liền hay đại lục mới đủ tư cách gánh vác trách nhiệm đại biểu đó.
- Tại thiên thành tượng.
- Hai hiện tượng tự nhiên trên bầu trời có ấn tượng sâu sắc trong đầu thánh nhân khi tác dịch là: sấm sét và bão gió.
- Trời thì trong suốt đâu có nhìn thấy gì đâu? nhưng qua các hiện tượng chúng ta biết vật chất vẫn tồn tại ở đó, thứ vật chất mà dịch học gọi là nhẹ và trong, nhận định có 2 thể loại vật chất, một là chất đục và nặng có thể nhân biết dễ dàng còn một thứ trong suốt nên chỉ có thể nhận biết một cách gián tiếp thông qua các hiện tượng, ở đây dịch học chọn sấm sét và gió bão chỉ cái không gian bao la trên đầu con người.
- Bốn hình tượng: biển- đất và sấm- gió đủ để vẽ nên sinh cảnh của con người lúc ấy.
- Từ 8 hình tượng của tự nhiên người xưa đã nén thông tin tạo thành 8 quẻ của dịch học “tự nhiên” tức dịch học tiên khởi trước cả dic̣h học nút số, dịch học tự nhiên là tư duy của người Việt cổ hàng chục vạn năm cho tới khi được dịch học nút số thay thế.
- Hình tượng của dịch lý tự nhiên sau đã tạo thành 8 quẻ:
- Trời tạo thành quẻ Kiền hay Kiện.
- Đất tạo thành quẻ Khôn hay Xuyên.
- Mặt trời hay ban ngày tạo thành qủe Ly hay La.
- Mặt trăng hay ban đêm tạo thành quẻ Khảm hay cống.
- Biển cả tạo thành quẻ Đoài hay Đoạt.
- Đất liền hay đại lục tạo thành qủe Cấn hay Căn.
- Sấm sét tạo thành quẻ Chấn hay Thìn.
- Bão gió tạo thành qủe Tốn hay Toán.
Dịch học hình tượng là dịch học thô sơ, sau này khi khối tri thức lớn thêm, đầu óc càng ngày càng mở mang và khi con người đã ‘chất biến’ thì dịch học cũng đổi thay: dịch học nút số thay thế dịch học tự nhiên, hình tượng trở thành dịch tượng với các thông tin chứa ở trong sâu xa và trừu tượng hơn.
- Các hình tượng của dịch lý tự nhiên đã cho chúng ta các thông tin về sinh cảnh lúc ấy:
- 1 / Nơi sinh sống của cộng đồng người đã phát minh ra dịch học là vùng ven biển nơi đất liền với biển, từ cảnh quan cho đến sự cung ứng thực phẩm hàng ngày ̣đều đến từ một môi trường kép ‘biển và đất’ từ đó mới sinh ra lưỡng nghi ‘ Đoài và Cấn’, quẻ Cấn còn được coi là tượng trưng cho ‘núi’ Việt ngữ có từ kép ‘khuất núi’̣để chỉ sự chết, ý nghĩa này bắt nguồn từ việc mặt trời lặn ở hướng tây;với ý này ta thu được thông tin: người “tác”dịch sống ở nơi phía tây là núi và phía đông là biển.
- Thực vậy chỉ có sống ở nơi ven biển mới có thể nhìn thấy đường “chân trời” nơi mút tầm mắt từ đó nảy ra ý niệm: trời như cái bát úp trên mặt đất, chân trời là nơi cái miệng chén đặt trên mặt đất,vũ trụ quan đơn sơ này chính là khởi nguyên của ‘ trời tròn đất vuông’ là ý niệm cơ bản trong dịch học.
- Xét như thế ta khẳng định: dịch học không thể ra đời ở vùng Thiểm tây-Sơn tây cái nôi của Hán tộc vì đấy là vùng đất nằm sâu trong đất liền. , ở nơi mà chỉ có cát với cỏ thì làm sao có thể tưởng tượng ra cặp lưỡng nghi Đoài và Cấn....?
- 2 / Cặp hình tượng ‘ sấm sét và gió bão’ chỉ ra: cộng đồng người đã sản sinh ra dịch học sống ở nơi mà mưa bão- sấm sét là chu kỳ lập đi lập lại hàng năm, 2 ‘thiên tượng’ này phải là một nếp hằn sâu đậm trong đầu óc người cổ thì nó mới có thể được cấp cho ‘tính đại biểu’ của phần không gian hẹp trên đầu con người tức là 1 lưỡng nghi của dịch học. Sấm và bão ngoài sự hoành tráng vốn có nó còn là sống còn của cư dân nông nghiệp sau này vì sấm luôn kèm với mưa mà mưa là yếu tố quyết định của canh tác lúa nước, người Việt đã tổng kết “nước-phân-cần-giống”đủ biết mưa quan trọng như thế nào trong đời sống. Mưa bão sấm sét là một sự liên hoàn luôn đi với nhau nên thành 1 lưỡng nghi của dịch học: Chấn và Tốn.
- Lại thêm một khẳng định: quê hương của dịch học không thể ở ngòai vùng “Châu á gío mùa” vì chỉ ở vùng này Chấn và Tốn mới có tính chu kỳ và ảnh hưởng sâu sắc trên cuộc sống con người, Sơn tây-Thiểm tây cái nôi của Hán tộc rất ít mưa và hầu như không có sấm sét là hiện tượng sinh đôi của mưa bão thử hỏi làm sao có thể tưởng tượng ra Chấn với Tốn...?
- Tổng kết thông tin trong bài viết này và bài ‘trống đ̣ồng và quê hương dịch lý” trước đ̣ây ta xác định: Dịch học đã ra đời ở Việt nam, cụ thể hơn là ở vùng đồng bằng ‘Thanh nghệ tĩnh’; nơi mà phía đông là biển phía tây là núi, nơi mà hằng năm ghánh không biết bao nhiêu là bão gío- sấm sét,nơi mà bên đông có rồng bên tây có tịnh, hướng bắc (hướng của dịch lý tức hướng xích đạo) có Hổ và hướng nam (xưa) có đầy Thuồng luồng như đã chép trong truyền thuyết và Trên trời nhiều hạc mặt đất đầy hươu nai.
- Riêng về loài nai thống kê khảo cổ học cho biết ở đất Việt cách nay vài ngàn năm hươu nai là loài thú săn chiếm tới trên 50% trong tổng số thú bắt được cá biệt có nơi xương hươu nai chiếm tới trên 75%, vì điều này chúng ta hiểu được tại sao dịch học nút số dùng số 6 là lục hay lộc tức con nai tượng trưng cho mặt đất nơi mình sinh sống; ở Thiểm tây –Sơn tây có nai hay lộc nhiều như thế hay không?
- Tơí đây ta có thể tạm kết về dịch học hình tượng:
- Dịch học HÌNH TƯỢNG là một hệ thống gồm:
- 8 hình tượng tự nhiên: Trời-đất-mặt trời-mật trăng-biển cả-đất liền và sấm sét-gío bão.
- 6 chữ Điểu thú văn: Hạc-lộc-hổ-sấu-long-tịnh.
- Và các hình tượng Đặc biệt:
- Mặt trời ; là nguồn sáng cũng là nguồn sống được coi như biểu tượng của đấng tối cao và được nhân cách hóa thành ông trời.
- Con người; là trung tâm của vũ trụ nơi xuất phát mọi giá trị.
- Biểu tượng bộ phận sinh dục nam, người Viêt gọi là ‘nõn’ hay ‘lõ’, người Chăm gọi là ‘Linhga’.
- Biểu tượng bộ phận sinh dục nữ, gọi là ‘nường’ hay ‘lường’, người Chăm gọi là ‘Yoni’.
- Linhga và Yoni chính là biểu tượng xưa nhất của Âm và Dương, được coi như 1 biểu tượng tôn giáo trong các nền văn hoá Chăm và Khơme cổ, người Việt xưa vẫn có tục rước ‘nõn- nường’, sử sách trung hoa chép: Chu công đã cấm tục thờ ‘sinh thực khí’ tức ‘nõn-nường’.,trong ngôn ngữ Việt hiện nay linhga và yony đã được xác định chính là Âm và Dương trong 2 danh từ “âm hộ và dương vật” tức bộ phận sinh dục nữ và nam.
- Trong loạt bài đã viết tôi đã nêu ra thứ tự theo thời gian của các hệ thống dịch học:
- Dịch học nút số.
- Dịch học vạch quẻ.
- Dich học bằng văn tự.
Nay
qua
bài
viết
này
ta
thấy
Dịch
học
hình
tượng
mới
là
khởi
nguyên
của
dịch
học,
nền
dịch
học
ra
đời
từ
khi
con
người
còn
chưa
biết
đến
chữ
dù
là
loại
chữ
kết
thằng
cổ
xưa
là
gì
và
nó
đã
đồng
hành
cùng
con
người
cả
trăm
ngàn
năm,
cùng
với
tiếng
nói
hay
‘điều
–tiếng’
dịch
học
tự
nhiên
đã
trở
thành
cái
nền
của:
tư
duy,
khám
phá,
ứng
dụng
và
truyền
thông.
.;
tóm
lại
dịch
học
hình
tượng
là
căn
đế
của
1
nền
văn
minh
vô
cùng
rực
rỡ
nhưng
đang
tạm
thời
bị
vùi
lấp
và
cũng
đang
dần
toả
sáng.
Mục lục[sửa]
- Tản mạn về ngôn ngữ Việt Hoa
- Cổ sử Trung-Hoa và những dấu?
- Những điều không thể
- Cây cầu Hoa-Hán
- Trống đồng
- Trống đồng (tiếp theo)
- Dịch lý và thời lập quốc
- Đường dẫn
- Truyền thuyết và thơ sử
- Thần thoại Trung hoa
- Thần thoại họ Hùng
- Hùng triều thứ 1-Hùng Dương
- Hùng triều thứ 2-Hùng Hiển, thứ 3-Hùng Nghị và thứ 4-Hùng Diệp
- Hùng triều thứ 5-Hùng Vũ vương
- Hùng triều thứ 6-Hùng Hy,thứ 7-Hùng Thuấn và thứ 8-Hùng Việt
- Hùng triều thứ 9- Hùng Hoa
- Hùng triều thứ 10-Hùng Huy và thứ 11-Hùng Vỹ
- Hùng triều thứ 12 - Hùng Chiêu
- Hùng triều thứ 13-Hùng Ninh và 14-Hùng Tạo
- Hùng triều thứ 15-Hùng Định
- Khởi nghĩa chống Tần
- Hùng triều thứ 16-Hùng trịnh
- Hùng triều thứ 17-Hùng triệu
- Hùng triều thứ 18- Hùng Duệ
- Vong quốc sử
- Lưỡng triều kháng Ngụy
- thời phục hưng
- hậu Đường và nước Đại Viêt
- phụ chương thay lời kết
- chú ý
Bản quyền[sửa]
- Nguyễn Quang Nhật
- http://nguyenquangnhat.page.TL
Bài liên quan
Liên kết đến đây
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 1
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 2
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 3
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 4
- Sử thuyết họ Hùng
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 6
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 7
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 8
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 9
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 10
- Xem thêm liên kết đến trang này.