Sử thuyết họ Hùng/Bài 21

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

16. Hùng triều thứ 16: Hùng Trịnh[sửa]

Vua khai sáng – Hưng Đức Lang.

Danh hiệu khác trong sử Việt: Lý Bôn, Lý nam đế.

Danh hiệu khác trong sử Hoa: Lưu Bang Hán (Hiếu)cao tổ.

Quốc hiệu: Vạn xuân.

Niên đại: năm 206 – 8 trước CN

Hùng Trịnh là vương đất Trịnh nơi khởi phát đế nghiệp của Lý Bôn

Hưng Đức Lang có ý nghĩa:

Hưng ta đã biết ở phần trên (Hưng – Suy). Đức là biến âm của Đế, Lang cũng có nghĩa là vương, nên gọi là Hưng Đức hay Hưng Lang thì đúng hơn. Đây là sai lầm thường thấy của người Việt như: Núi Thái Sơn, Sông Hương Giang V.v…

Phép biến âm phù thủy đã biến ‘Hưng Đức’ thành ‘Hán đế’ tức đại hãn Mông cổ.

Sử Trung Hoa không biết vô tình hay hữu ý thường lờ họ Triệu của nhà Tần … thay vào đấy dùng chữ Dinh, như Tần Thủy Hoàng tên là Triệu Chính nhưng sử Trung Hoa thường ghi là Dinh Chính. Thực ra ‘Triệu’ là biến âm của từ ‘Chậu’ trong ngôn ngữ Thái Lào; từ chúa trong tiếng Việt vậy Triệu Chính chỉ có nghĩa là chúa tên Chính chứ không phải họ Triệu tên Chính.

Tương tự triều Lý Bôn Hưng Đế cũng thế, theo qui luật về danh xưng các vương triều Trung Hoa thì thời Lý Bôn – Lưu bang phải gọi là triều “Hiếu” mới đúng; tất cả các vua triều này đều có đế hiệu với chữ “Hiếu” đứng đầu như: Hiếu Cao Tổ,, Hiếu Cảnh Đế, Hiếu Vũ Đế V.v… nhưng sử Trung Hoa lại gọi là triều ‘Tây Hán’ hay ‘Tiền Hán’, không hiểu vì lẽ gì?

Do hiềm khích giữa Lưu Bang và Hạng Vũ khi phân phong đất đai trước của đế quốc Tần, Hạng Vũ đã đẩy Lưu Bang đến vùng xa xôi hiểm trở nhất là bắc Tứ xuyên –nam Thiểm tây đấy là nơi khỉ ho cò gáy đến nỗi không những quân mà cả tướng ngày nào cũng có người bỏ trốn trong đó có cả Hàn Tín may mà tể tướng Tiêu Hà đuổi kịp dỗ dành nên quay lại. Nói như thế để ta hình dung ra cảnh sinh họat tiêu điều không bóng người...trái ngược với điều Hoa sử nói Thiểm tây -Hà nam là đất trung tâm của nhà Chu tức là chốn phồn hoa đô hội...không lẽ tất cả dân nhà Chu đã chết sạch? .

Khi lên ngôi dù lòng không muốn nhưng Lý Bôn buộc phải phong cho 1 số tướng lãnh, công thần tước vương và cắt đất cho họ làm chư hầu, trong đó:

Hàn Tín được phong ở nước Sở – Hồ Nam. Bành Việt được phong ở đất Long, Anh Bố được phong là Hoài Nam Vương đất Phong ở nam sông Hoài.

Về sau các vương này đều bị cáo giác làm phản và bị giết, đất đai bị thu hồi. Sau khi diệt Hoài Nam Vương Anh Bố, Hưng Đế về thăm đất Bái, trong 1 bữa tiệc nơi đất cũ, nơi có núi Muang Đãng thưở xưa, ông vua Trung hoa người dân tộc 'tiền'Mường ngâm 4 câu thơ còn ghi trong sử sách đặc biệt có câu: “Đại phong khởi hề vân phi dương” dịch là ‘gió lớn thổi hề mây bay lên’. Ý nghĩa lịch sử nằm ở chữ ‘phong’ và chữ ‘vân’. Phong chỉ Phong Châu, hay đất Phong nơi sinh ra Lý Bôn, vân là tên cả vùng đất nay là Vân Nam, xưa là đất Văn Lang hay Văn Vương thường được gọi tắt là đất Vân.

Việc mở rộng cương vực về miền bắc (phương hiện nay) Hoàng Hà đã được bắt đầu từ thời Trụ Vương nhà Ân Thương, rẻo đất giáp bờ bắc Hoàng Hà ngày nay thuộc Hà Nam là nơi xây Biệt Đô Triều Ca, đất xưa có Biệt Đô tên là Hà Nội, trùng với tên thủ đô Việt Nam ngày nay. Sang đời Tần tướng Mông Điềm đã vượt sông chiếm vùng đất từ Hoàng Hà lên đến Trường Thành lập thành 44 huyện; đấy là đất của người Lu (Liêu) thuộc chủng Mongoloit, trong chiến tranh Hưng – Suy (Hán Sở) vì nội chiến vùng này không có người phòng thủ nên rơi vào tay Hung Nô, Hiếu Cao Tổ sau khi lên ngôi đã toan chiếm lại nhưng Hung Nô lúc ấy đã quá mạnh đành chịu thất bại – phải áp dụng chính sách hòa thân không chiến tranh.

Trong cuộc Hán sở tranh hùng quân của Lưu bang có nhiều người Hung nô phương bắc (nay) nên với Lưu bang không có sự phân biệt Hán Hoa, hoàng tộc Trung hoa và dòng thủ lãnh các tộc Hung nô đã có nhiều cuộc hôn nhân, rất có thể trong số các hoàng tử công chúa cũng đã có người mang 2 dòng máu, điều này thể hiện quan điểm chính trị thực dụng của Lưu Bang do thực tế vùng đất ông đứng chân mà ra.

Nhưng với vợ ông bà Lữ hậu thì khác: trong cái tầm mắt hạn hẹp nhỏ nhoi của đàn bà lại chứa cái rất to lớn đó là ý thức dân tộc : Hoa là Hoa Hán là Hán. ..chính vì vậy: khi Hiếu Cao mất, quyền hành thực sự nằm trong tay Lã Hậu, bà là người cứng cỏi và có tham vọng đoạt ngôi vua cho họ Lữ,

Từ khi Lưu bang mất thì Hung nô đã thực sự trở thành quốc nạn đối với người Trung hoa, tấn công cướp phá liên miên mãi cho đến đời vua thứ 6 là Hiếu Vũ Đế, Trung Hoa lại phục hưng đánh bại và dồn Hung Nô về tận sa mạc ở tây bắc. Đây là đời thịnh trị huy hoàng của Trung Hoa.

Theo sử Việt: Lý Bôn – Lưu Bang là Lý Nam Đế, chữ Nam này đã chỉ rõ vùng kinh đô của triều Hiếu nằm ở phía nam (xưa) Trung Hoa, Triều Hiếu Trung Hoa có văn trị võ công hiển hách, cả vùng đất mênh mông của người Mongoloit ở ngoài Trường Thành phía bắc (hiện nay) Trung Hoa đã bị chinh phục, không phải chỉ mở rộng lãnh thổ, tầm nhìn Trung Hoa cũng được mở mang rất nhiều qua các chuyến đi sứ về hướng tây của Trương Khiên, Tô Vũ V.v…

Tự điển đầu tiên của Hoa tự đã được lập ở thời này, có trên 6.000 từ, đây cũng là tự điển đầu tiên của nhân loại và là cái nền của HƯNG VĂN mà ngày nay gọi sai thành ra HÁN VĂN .

Từ đời Hán Văn Đế tức năm 163 trước CN, Trung hoa bắt đầu dùng niên hiệu vua làm lịch, từ đó mới có thể xác định thời gian của lịch sử Trung Hoa, trước đây dùng lịch Can Chi, lịch này cứ 60 năm lại trở về từ đầu nên khó biết đích xác các sự kiện lịch sử vì 60 năm lại có 1 năm trùng tên nhưng như thế cũng chưa phải là ổn vì có nhiều niên hiệu trùng nhau.

Sau khi Lữ Hậu mất, Trung Hoa chia thành lưỡng triều Bắc và Nam, phải đến đời Hiếu Vũ Đế đánh bại Nam Việt Vũ của nước Nam Việt thống nhất Trung Hoa. Lịch sử mới coi đó là cái mốc chính thức thành lập “Đế quốc Hiếu”, nên Lý Triệt có đế hiệu là Hiếu Vũ Đế, như Hạ Vũ tổ nhà Hạ, Thành Thang Vũ Vương người kiến lập triều Thương, Chu Vũ đế người khởi đầu triều đại Chu, riêng triều Hiếu đã trải 6 đời vua nhưng phải đến Lý Triệt một quân vương hiển hách, thu giang sơn về 1 mối mới được gọi là “Hiếu Vũ”.

Chi tiết lịch sử về đoàn đi sứ về phương Tây của Trương Khiên muốn tìm đến nước Thiên Trúc, khi đi đến Côn Minh bị chặn lại, họ phải đi vòng đến nước Điền Việt ở Vân Nam, được vua Điền Việt hết sức giúp đỡ … cho ta thấy đầu đời Hiếu Vũ Đế nhà Hiếu không làm chủ phía nam (hướng hiện nay) Trung Hoa vì đây là vùng ảnh hưởng của nước Nam Việt.

Nhà Hiếu từ Hiếu Cao Tổ Lý Bôn đến vua cuối là Nhũ Tử Anh tổng cộng là 13 đời vua, trị vì Trung Hoa từ năm 206 trước CN đến năm 8 sau CN là dấu ấn quan trọng trong lịch sử Trung Hoa,

các sử gia Hán tộc đã dùng thủ thuật chữ nghĩa biến Hưng Đế thành Hãn Đế (tức vua Hung Nô); chỉ một động tác nhỏ mà thành công hoàn toàn trong việc thoán đoạt độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người. Hưng Đế biến thành Hãn Đế, dân tộc họ Hùng hàng chục ngàn năm lịch sử bổng biến thành dân Hãn của Khả Hãn kéo theo hàng loạt từ “biến chất”: (xin đọc bài cây cầu Hoa Hán ở phần trước)

Hãn Quốc: nước của Khả Hãn biến thành Hán Quốc. Hãn tộc biến ra Hán tộc.

Người họ Hùng còn gọi là người Hoa bổng chốc trở thành người Hán tức Hãn tộc. Sự kiện hy hữu này tới 2.000 năm sau mới nhìn ra; người Trung Hoa ngày nay vẫn vui vẻ nhận mình là người Hán tức con dân Đại Hãn, rất hãnh diện nên cứ mở miệng là Xưng. ..nam tử hán...;

Dân Họ Hùng là tộc người duy nhất trên trái đất này bị tráo mất tổ tiên, lịch sử và nền văn minh khi triều đại “Hiếu” của Trung Hoa bị biến thành nhà “Tây Hán” hay Tây Hãn Quốc tức nhà nước của dân Mongoloit.

Bản thân vương hiệu: Hưng Đức Lang tức Hưng Đế bị bẻ quặt thành Hán Đế từ đó đẻ ra nhà Tây Hán. Thực ra lịch sử Trung Hoa triều Canh Thủy Đế Lưu Huyền là ông tổ của nước Hán hay hãn Quốc là triều Tây Hán mới đúng.

Sử Việt đã sai rất lớn khi chép Lý Bôn cũng là Lý Bí rồi dồn các sự kiện lịch sử ở 2 triều thành một khiến hậu thế rối bời mãi đến nay vẫn chưa nhìn ra lịch sử thật của dân tộc mình.


Mục lục[sửa]

Liên kết đến đây

Xem thêm liên kết đến trang này.