Sử thuyết họ Hùng/Bài 1
Tản mạn về sự biến âm trong tiếng VIỆT và HOA[sửa]
Một từ luôn có 2 phần; phần thanh và phần tự hay chữ, trong bài này chỉ nói đến phần thanh không nói đến phần chữ, vì bàn đến phần chữ là đã đi vào lãnh vực chuyên sâu của ngôn ngữ học, đã là phần chuyên thì người ‘thường’ không dám lạm bàn.
Cũng như bao sự việc khác, ngôn ngữ phát triển và biến đổi theo thời gian, và vị trí địa lý, nó thay đổi theo từng vùng và dân tộc. Nếu không đi nhiều cũng như không tiếp xúc thừơng với những người ở các nơi khác nhau, ngay chính người Việt ở thời truyền thông hiện đại, giao tiếp với nhau bằng tiếng Việt cũng chưa chắc đã trọn vẹn.
Ta có thể nói là có sự khác nhau, chứ không nên xác định là sai hay đúng; chỉ có thể nói sai hay đúng so với chuẩn quốc gia, mà chuẩn quốc gia cũng là một qui định, cùng nhau qui ước là viết như thế và đọc như vậy cho thống nhất trong một chuẩn để thông tin, chuyển tải ngôn ngữ đạt được sự chính xác – tránh việc ông nói gà bà hiểu ra là vịt.
Ta có thể nêu vài sự khác biệt hay thay đổi lớn trong ngôn ngữ Việt ngày nay:
- Trước đây khoảng trăm năm, khi được “La Tinh hóa” Quốc ngữ, âm ‘tr’ được viết và đọc là ‘bl’, thí dụ:
-Blời
→
Trời;
Blu
→
Trâu
Không
phải
thay
đổi
rồi
thôi
mà
có
nhiều
chữ
vẫn
song
hành
như:
-rung
rinh
→
lung
linh
Vẫn
còn
nhiều
sự
biến
đổi
khác,
nếu
không
hiểu
rõ,
có
thể
ta
sẽ
hiểu
sai
hay
không
hiểu
nổi
nhiều
vấn
đề,
nhiều
sự
việc
của
quá
khứ
xa
xôi.
Với âm ‘l’ nhiều người miền Bắc phát âm thành âm ‘n’. Thí dụ:
-phương Nam → phương Lam; làng nước → nàng lước
Nếu
sự
thay
đổi
âm
‘l’
và
‘n’
lại
chồng
lên
sự
thay
đổi
của
âm
‘r’
và
‘l”
thì
sự
khác
biệt
đi
quá
xa
coi
như
không
có
sự
liên
quan,
…
nhưng
nếu
chúng
biến
đổi
qua
nhiều
tầng
nấc
trung
gian
chúng
lại
có
liên
quan
với
nhau.
-‘rú’ trong ‘rừng rú’ có nghĩa là ‘núi’, ta xem diễn biến chuyển đổi như sau:
rú → lú → lúi → núi
r→ l l→ n
rừng → lừng → lừm → lùm (bụi)lâm (Hán-Việt)
Lần
theo
từng
mắt
xích
như
trên,
ta
thấy
rõ
ràng
“lâm”
đâu
có
phải
là
từ
ngoại.
Còn
có
nhiều
thay
đổi
nếu
không
biết
sẽ
không
hiểu
nổi
nhiều
vấn
đề
của
lịch
sử
như:
Âm ‘r’ còn có thể biến âm thành ‘d’ như: râm (bóng râm) → bóng dâm
Âm ‘l’ biến âm thành ‘nh’: ló → lú (lên) → nhú (lên), nhô (lên); lớn lao → nhớn nhao
Từ kép: siu siu (ngủ) → thiu thiu (ngủ) siêu siêu (ngủ)
Cũng có nhiều sự khác biệt rất lớn giữa phương ngữ miền Bắc và phương ngữ Nam bộ, chỉ xin khái quát vài điều rõ ràng mà thôi:
- Âm ‘v’ miền Bắc, miền Nam đọc thành ‘d’, ngay trong cách phát âm tên quốc gia cũng có sự khác biệt: Việt Nam → diệc nam (viết theo cách phát âm); nếu nói “Việt” từ gốc Hán có nghĩa là “vượt” thì “diệc” hay “diệt” là gì?
Âm ‘h’ ở miền Bắc thì ở miền Nam biến thành ‘gh”; tương tự âm ‘q’ cũng vậy.
-Thí dụ: đi hoài → đi ghoài (mãi)
-quốc gia → ghuấc gia hay guốc gia.
-Nguyên
âm
tiếng
Việt
như
‘u’
biến
thành
‘o’,
như
tùng
→
tòng
-‘u’
biến
thành
‘âu’,
như
chu
→
châu
-‘â’ biến thành‘ư’’, như nhất → nhứt, chân → chưn
Thời
khá
xưa
chữ
‘khởi’
đọc
là
‘khỉ’;
chữ
‘mày’
miền
Trung
đọc
là
‘mi’,
‘ông’
→
‘ôn’.
Như
thế
sự
khác
biệt
thực
thiên
hình
vạn
trạng.
Đó
mới
chỉ
là
chuyện
trong
nhà,
còn
xét
đến
những
biến
âm
của
từ
thuần
Việt
và
Hán
Việt
thì
còn
nhiều
điều
phải
bàn
lắm
như
chữ
‘lâm’
và
‘lùm’
ở
trên.
Ta quen gọi là từ Hán Việt, thực ra chưa chắc như thế, nhiều khi còn ngược lại là đằng khác. Thí dụ: sông và xuyên; sưng và sơn; kênh lạch và kinh lạc
Có nhiều từ xét về sự hợp lý theo thời gian cấu thành, tưởng là xuất phát từ Hán tự nay chỉ là từ biến âm theo từ “Nôm”. Thí dụ: người Việt thường nói, họ hàng – hang hốc; nếu nghiệm ra ta thấy đây là cặp từ ghép mang tính giải thích, chú dẫn về nguồn gốc: ‘hàng’ xuất phát từ ‘hang’, ‘họ’ phát xuất từ ‘hốc’. Từ thưở hồng hoang khi con người còn “ăn hang ở lỗ” thì mỗi một hang là nơi cư trú của một thị tộc gồm từ vài chục đến vài trăm người, và nhiều hang như thế hợp thành một bộ tộc hay bộ lạc, trong mỗi hang lại có nhiều ngõ ngách gọi là ‘hốc’, mỗi hốc thường là nơi cư trú của một đại gia đình; sau này dù còn người không còn ở hang nữa nhưng từ ‘hang’ và ‘hốc’ vẫn được dùng để chỉ một tập thể người có liên quan với nhau.
Có điều đặc biệt là chúng không dừng lại ở tiếng Việt mà còn biến thành từ Hoa hay từ Hán Việt:
- hang → hàng (Việt) , hương (Hoa)
- hốc → họ (Việt) , hữu (Hoa)
Vậy
ta
có
thể
quyết
định
xem
nhóm
từ
hang
–
hốc
→
hương
–
hữu
là
từ
Việt
gốc
Hán
hay
là
từ
Hán
gốc
Việt?
Xét
về
mặt
lịch
sử
hình
thành
thì
không
thể
nào
nói
khác
đi:
đó
là
từ
Hán
gốc
Việt.
Tương
tự
như
vậy,
khi
ta
xét
cặp
từ
‘kênh
lạch’
và
‘kinh
lạc’:
‘kênh
lạch’
là
đường
dẫn
truyền
nước
trong
tự
nhiên
nó
có
trước
cả
khi
con
người
có
hệ
ngôn
ngữ,
sau
được
định
danh
là
‘kênh’
và
‘lạch’;
còn
‘kinh
lạc’
là
đường
dẫn
truyền
khí
huyết
trong
con
người;
nó
là
thành
tựu
tuyệt
vời
của
nền
khoa
học
nói
chung,
y
học
Trung
Hoa
nói
riêng
tức
là
lúc
con
người
đã
văn
minh
lắm
rồi,
nói
như
vậy
chắc
chắn
từ
‘kinh
lạc’
bắt
nguồn
từ
‘kênh
lạc’.
Các nhà ngôn ngữ học ngày nay xác định hơn 50% từ Việt là từ Hán Việt – nói như thế có 2 điều phải bàn:
1. Có hơn 50% là từ Hán Việt là mới xem xét đến số lượng từ dùng chung, còn cộng cả số từ biến âm, bắt nguồn từ nhau thì tỉ lệ lẫn lộn Việt – Hoa còn lớn hơn nhiều.
2. Nói từ Hán Việt là từ Việt có nguồn gốc ở ngôn ngữ Hán là thói quen có tính áp đặt; sự áp đặt này xuất phát từ ưu thế số lượng mà ra. Khách quan mà xét thì sự áp đặt trên có nguồn cơn từ lịch sử, qua hàng ngàn năm nước Việt chỉ là một chư hầu của nước Hán (ta cứ tạm gọi như thế), …. nên nói từ ‘Hán Việt’ hay từ Việt gốc Hán là hợp lý và nhiều người mặc nhiên chấp nhận, coi như chuyện bình thường, không ai thắc mắc, từ quan tới dân, từ trí thức tới người tốt nghiệp bình dân giáo dục không ai đặt dấu chấm hỏi.
Như đã dẫn ở vài thí dụ ở trên, chuyện không đơn giản như quán tính lịch sử đã tạo nên, 2 ngôn ngữ Hoa Việt quấn quýt vào nhau chặt chẽ hơn ta tưởng, ngay trong Kinh Dịch là linh hồn của văn minh Trung Hoa cũng không phải là thấp thoáng, mà tràn đầy tiếng Việt!?
-Quẻ Lửa → Ly
- Sấm → Chấn
- Tán (Toán) → Tốn
- Kiềng, Càng→ Kiền, Càn
- Cản,căn → Cấn
- Căm hay cóng là tên khác của qủe khảm
- Khôn thì rõ ràng là từ Việt (khôn ngoan, trí khôn hay khuân vác, khuân mang)
-Lịch
sử
và
văn
minh
Trung
Hoa
cũng
rõ
ràng
kết
cấu
gằng
“gạch”
Việt,
như:
hòn
→
hoàng
(xuất
phát
từ
Kinh
Dịch:
trời
tròn
là
vua,
đất
là
dân}
viên → vương
vua → vũ
cha, chúa → chu, chiếu, triệu (họ)
bản (làng) → bang (quốc)
gốc (→ guốc) → quốc, nhà → gia
giêng – hai → giang – hồ (hải)
lu (mờ) → người Lu hay liêu
căm là lạnh → người Kim
mun (đen) → mông, minh, Mãn [người hay nước]
Đặc
biệt
2
từ
có
mối
liên
hệ
quan
trọng
đến
vận
mệnh
nước
Hán
là
“quan”
và
“từ”
lại
là
đích
thị
dịch
từ
chữ
Nôm:
“quan”
là
dịch
chữ
‘nhìn’,
chữ
‘nom’;
và“từ”
dịch
chữ
‘thương’
(tình
thương).
Quan Trung: vùng đất phía nam. Quan thoại: tiếng nói phương nam. Quang Vũ (viết Quan thành Quang): là ông vua phương nam, như vậy ông vua khai sáng triều Đông Hán đâu có phải vuaTrung Hoa.vì chính người Hán nhận mình là Quan tộc.
Chữ “từ” là dịch sang hán ngữ chữ “thương” của tiếng Việt. Theo Dịch lý, thì phương đông là phương của tình cảm (quẻ Khảm), nghĩa là phương của sự thương cảm giữa người và người (trong chữ Hán, thương là thương tật,) , đồng thời phương đông cũng là phương của màu xanh.
xanh → thương – thanh, nên sau này có nhà Thương, nhà Thanh. Như thế: từ = thương = phương đông chỉ vùng Sơn Đông hiện nay, xưa là đất nước Tề (Từ → Tề). là chốn mà lịch sử Trung Hoa gọi là Nam Man và Đông Di; đã là man – di thì vùng Hà Bắc, đất tổ của nhà Đông Hán và Sơn Đông là đất nước Tề (Từ) thời Chiến Quốc, nước Ngụy thời Tam Quốc không thể nào là Trung Hoa được.
Về sự thiên biến, vạn hóa trong tiếng Việt giữa xưa và nay, ta đơn cử một đoạn trong sớ tấu của Trần Cương Trung, sứ giả nhà Nguyên (thế kỷ 13) dâng lên vua theo bản dịch của Lê văn Siêu trong Việt Nam Văn Minh Sử như sau: “Tiếng nói của dân Tru Ly gọi ‘trời’ là ‘bột mạt’, ‘mặt trời’ là ‘phù bột mạt’, ‘mặt trăng’ là ‘bột văn’, ‘gió’ là ‘giáo’, ‘mây’ là ‘mai’, ‘núi’ là ‘can ngỗi’, ‘nước’ là ‘lược’, ‘mắt’ là ‘mạt’, ‘mồm’ là ‘mạnh’, ‘cha’ là ‘chá’, ‘mẹ’ là ‘ná’, ‘con trai’ là’can đa’, ‘con gái’ là ‘can ái’, ‘chồng’ là ‘chùng’, ‘vợ’ là ‘đà bị’, ‘tốt’ là ‘lĩnh’, ‘không tốt’ là ‘chương lĩnh’, cả thảy là như thế, tiếng nói gấp mà nổi, phần lớn giống như tiếng chim, …”
Chắc chắn phiên âm tiếng Việt bằng chữ Hán có nhiều lệch lạc, nhưng qua đó ta vẫn còn nhận ra:
‘gió’ là ‘giáo’
‘mây’ là ‘mai’
‘nước’ là ‘lược’
‘mặt trăng’ là ‘bột văn’ (âm Nam bộ = dăng = trăng; chữ ‘bột’ không đoán được)
‘mắt’ là ‘mạt’
‘mồm’ là ‘mạnh’ (miệng)
‘cha’ là ‘chá’
‘mẹ’ là ‘ná’ (má, nạ)
‘con trai’ là’can đa’
‘con gái’ là ‘can ái’
‘chồng’ là ‘chùng’
‘vợ’ là ‘đà bị’ (đàn bà)
‘tốt’ là ‘lĩnh’ (lành)
‘không tốt’ là ‘chương lĩnh’ (chẳng lành),
Những
chữ
còn
lại
không
thể
đoán
ra
được,
đặc
biệt
tên
của
dân
tộc
ta
viết
là
‘Tru
Ly’
có
thể
đoán:
‘Tru’
biến
âm
của
từ
‘chúa’;
‘Ly’
biến
âm
của
từ
‘Lửa’
nghĩa
là
dân
của
vua
lửa
hay
vua
vùng
nhiệt
đới.
Mới 700 năm mà đã khác xa như thế, nói chi đến 2, 3 ngàn năm trước!? Hỏi còn bao nhiêu từ cổ mà ngày nay chúng ta nhận ra được?
Ở đoạn trên, riêng từ ‘núi’ là ‘can ngỗi’ có thể đoán: ‘can’ là ‘cấn’, một quẻ trong Bát Quái, tượng trưng cho ‘núi’ và chúng ta chú ý từ ‘nước’ là ‘lược’ vì nó có liên quan đến quốc hiệu cổ xưa của Việt Nam mà ta sẽ tìm hiểu ở phần sau.
Về sự liên quan giữa ngôn ngữ Hán và Việt còn nhiều khía cạnh phải xem xét. Thí dụ: tên Nôm và tên chữ của một số địa danh ở Việt Nam, tên Nôm là tên gọi, nói; tên chữ là tên viết bằng Hoa tự như:
Làng
Vầy
→
Làng
Sơn
Vi
Làng Tó → Làng Vũ Đại
Vi
là
Vây
(cái
vây
cá);
từ
‘Vầy’
→
‘Vây’,
ký
âm
Hán
tự
là
‘Vi’
như
thế
nếu
nói
‘Vi’
là
từ
Hán
Việt
e
không
đúng,
‘Vi’,
‘Vây’,
‘Vầy’chỉ
là
những
phương
âm
của
cùng
một
chữ
mà
thôi.
Còn
‘Tó’
viết
thành
‘Vũ
Đại’
mới
đúng
là
dịch
sang
Hán
tự;
tó
là
to,
to
→
đại.
Việc dịch những danh từ riêng của Việt sang Hán tự cũng gây đau đầu lắm! Như từ ‘Vũng Quýt’, một địa danh ở miền Trung của Việt Nam, nếu hiểu ‘Vũng’ là danh từ chung là một vùng nước sát đất liền tương đối được che chắn kín gió, … như Vũng Tàu, Vũng Rô, thì chữ ‘vũng’ là ‘Vịnh’ trong Hán ngữ. ‘Quýt’ là tên riêng nếu chuyển ngữ thành ‘Quất Vịnh’ thì có thể nhận ra, nhưng phiên âm theo Hán tự để viết thành ‘Dung Quất” thì sai xa lắm, người dân ở Vũng Quýt đọc lên cứ ngỡ là một địa danh nào đó ở bên tầu
Việc dùng Hán tự để ký âm các từ gốc La Tinh đôi khi tạo nên những cụm từ … quái dị …, về nghĩa thì không có rồi, và về âm thì chuyển đi xa lắc xa lơ … phải có óc tưởng tượng siêu lắm mới tìm thấy sự liên quan, như:
England ký âm thành Anh Cát Lợi. France thành Phú Lãng Sa. Washington → Hoa Thịnh Đốn. (ông) Ghandi → (Thánh) Cam Địa, v.v… Khổ một nổi sự ký âm này là bắt buộc vì 2 hệ thống ngôn ngữ khác nhau hoàn toàn nên không có cách nào khác.
Tới đây người đọc có thể thông cảm với người viết và mặc nhiên chấp nhận một độ lệch nào đó của âm ngữ khi dẫn chứng tư liệu lịch sử Việt Nam từ cổ đại cho đến cận đại vì tất cả được viết bằng chữ nho hay nói rõ hơn là những từ Việt được ký âm bằng chữ Hán, sự lệch lạc đôi khi rất xa, nhưng ta có thể nhận ra được nếu nó nằm trong một thể hoàn chỉnh, có đầu có đuôi, có đối chứng V.v… nếu có hẳn một hệ thống xuyên suốt thì trở nên hiển nhiên, rõ ràng không phải bàn nữa, ta có thể khái lược hệ thống “biến từ ” Việt – Hoa trong những từ chĩ người lãnh đạo quốc gia như sau:
1. Cao – cả → cổ nghĩa là người đứng đầu, thủy tổ như ông Bàn Cổ; Cổ Thục; Cổ Tẩu.
→ cô, cơ: cũng là người đứng đầu như ‘Hiên Viên là tổ họ Cơ; ông Cơ Xương, Cơ Phát.
→ Cao: ông cao Giao; Thái Cao; Cao Tân; Cao Dương; Cao Sơn.
→ Câu: Câu Tiễn (Việt Vương)
Chữ Tôn viết sai là Tông trở thành đế hiệu của các vua Việt Nam và Trung Hoa từ đời Đường, Lý về sau. Căn cứ vào cấu trúc cụm từ thì rõ ràng ‘Tôn”, ‘Tông’ tương đương với chữ ‘Vương’. Thí dụ: Lý Thái Tôn, Lý Cao Tôn, V.v…
2. Vua → Vũ: chỉ hoàng đế khai quốc như Hạ Vũ, Võ Vương, Chu Vũ Vương, Hán Vũ Đế, Vũ văn Giác, Quách Vu.
3. Cha – chú → chúa, chủ
→ chu, châu, sau biến thành Chu, Triệu như: nhà Chu, họ Chu: Chu Nguyên Chương, họ Triệu: Triệu Chính, Triệu Đà, Triệu Khuông Dẫn, V.v… đặc biệt ngôn ngữ Thái – Lào có từ ‘chậu’ nghĩa là ‘ông hoàng’, khi ký âm bằng Hán tự thì các vua Champa trở thành họ ‘Chế’ như: Chế Củ, Chế Mân, Chế Bồng Nga, V.v…
4. Lửa → Ly (quẻ) là ngọn lửa, mặt trời, nghĩa bóng chỉ ‘hoàng đế’ sau biến thành họ ‘Lý’, họ ‘Lê’ như: Lý Bôn, Lý Bí, Lý Uyên, Lý Công Uẩn; Lê Lợi, Lê Hoàn, (Hán tự ký âm sai thành họ Lưu)
5. Đức: chỉ nhân vật có địa vị cao trọng như: đức Chúa, đức ông, V.v… Hán ngữ ký âm thành Đế đồng nghĩa với vua, chúa; âm Khmer là ‘cham đéc’ nghĩa là ông hoàng.
6. Xuất phát từ ý niệm: ‘trời tròn, đất vuông’, ‘trời là vua, đất là dân’, người ta tạo nên các từ: hòn → hoàn → hoàng nghĩa là vua; ‘viên’ chỉ vật tròn → vương. Trong lịch sử có: Đinh Hoàn, Lê Hoàn, Hiên Viên, Tản Viên, …
7. Các tước vị của quí tộc Trung Hoa:
- không 0 → công
- hai 2 → hầu
- ba 3 → bá
- tư 4 → tử
- năm 5 → nam
Từ
hệ
thống
“chuyển
ngữ”
này,
ta
có
thể
khẳng
định,
trước
khi
Hán
tự
được
dùng
để
viết
sử
thì
đã
có
lịch
sử
Trung
Hoa
viết
bằng
một
thứ
chữ
khác
với
Hán
tự,
đó
chắc
chắn
là
kiểu
chữ{văn}
“khoa
đẩu”
của
nhà
Thương-
Chu,
Ngũ
kinh
cũng
được
chép
bằng
thứ
chữ
này.
Từ
đời
Tần
người
ta
mới
dùng
kiểu
chữ
“tiểu
triện”
thay
thế,
loại
chữ
tiểu
triện
qua
nhiều
lần
cách
tân
về
cách
viết
trở
thành
Hán
tự
ngày
nay;
người
Việt
không
gọi
là
Hán
tự
mà
gọi
là
“chữ
Nho”,
phải
chăng
‘Nho’
là
biến
âm
của
‘nhỏ’
đồng
nghĩa
với
‘tiểu
triện’,
người
Việt
ưa
dùng
điệp
ngữ
“Nho
nhỏ”
cũng
là
một
dẫn
chứng
có
giá
trị
cho
hướng
suy
nghĩ
như
trên.
Bản thân dân du mục phương Bắc khi chiếm đóng Trung Hoa chưa có hệ thống văn tự riêng nên dùng luôn hệ thống văn tự Trung Hoa làm quốc văn vì không có cách nào khác, từ đó chữ tiểu triện biến thành Hãn tự, điều này giải thích sự mâu thuẫn trong tâm thức người Việt.
Từ Hán trong Hãn tộc là một nỗi ám ảnh kinh hoàng do những thống khổ người Việt phải chịu thời vong quốc. Nhưng từ ‘Hán’ trong ngôn ngữ Hán, người Việt gọi là chữ Nho thì lại có vị trí trân trọng đặc biệt và được gọi là chữ của “thánh hiền”.
NguyenquangNhat;
http://nguyenquangnhat.page.TL
Mục lục[sửa]
- Tản mạn về ngôn ngữ Việt Hoa
- Cổ sử Trung-Hoa và những dấu?
- Những điều không thể
- Cây cầu Hoa-Hán
- Trống đồng
- Trống đồng (tiếp theo)
- Dịch lý và thời lập quốc
- Đường dẫn
- Truyền thuyết và thơ sử
- Thần thoại Trung hoa
- Thần thoại họ Hùng
- Hùng triều thứ 1-Hùng Dương
- Hùng triều thứ 2-Hùng Hiển, thứ 3-Hùng Nghị và thứ 4-Hùng Diệp
- Hùng triều thứ 5-Hùng Vũ vương
- Hùng triều thứ 6-Hùng Hy,thứ 7-Hùng Thuấn và thứ 8-Hùng Việt
- Hùng triều thứ 9- Hùng Hoa
- Hùng triều thứ 10-Hùng Huy và thứ 11-Hùng Vỹ
- Hùng triều thứ 12 - Hùng Chiêu
- Hùng triều thứ 13-Hùng Ninh và 14-Hùng Tạo
- Hùng triều thứ 15-Hùng Định
- Khởi nghĩa chống Tần
- Hùng triều thứ 16-Hùng trịnh
- Hùng triều thứ 17-Hùng triệu
- Hùng triều thứ 18- Hùng Duệ
- Vong quốc sử
- Lưỡng triều kháng Ngụy
- thời phục hưng
- hậu Đường và nước Đại Viêt
- phụ chương thay lời kết
- chú ý
Bản quyền[sửa]
- Nguyễn Quang Nhật
- http://nguyenquangnhat.page.TL
Bài liên quan
Liên kết đến đây
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 2
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 3
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 4
- Sử thuyết họ Hùng
- Sử thuyết họ Hùng ;bài 1
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 5
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 6
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 7
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 8
- Sử thuyết họ Hùng/Bài 9
- Xem thêm liên kết đến trang này.