Đức

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm


Đức (, ), tên chính thức là Cộng hòa Liên bang Đức (, ),[1] là một nước cộng hòa nghị viện liên bang nằm tại Trung-Tây Âu. Liên bang gồm có 16 bang, có diện tích là 357.021 km² và có khí hậu theo mùa phần lớn là ôn hòa. Dân số của Đức vào khoảng 82 triệu, là quốc gia thành viên đông dân nhất trong Liên minh châu Âu. Đức là quốc gia có nhiều người nhập cư thứ nhì thế giới, sau Hoa Kỳ theo số liệu năm 2014.[2] Thủ đô và vùng đô thị lớn nhất của Đức là Berlin. Các thành phố lớn khác gồm có Hamburg, München, Köln, Frankfurt, Stuttgart Düsseldorf.

Các bộ lạc German khác nhau cư trú tại miền bắc của nước Đức ngày nay từ thời đại cổ điển. Một khu vực mang tên Germania được ghi lại trước năm 100 TCN. Trong Giai đoạn Di cư, các bộ lạc German bành trướng về phương nam. Bắt đầu vào thế kỷ 10, các lãnh thổ của người Đức hình thành bộ phận trung tâm của Đế quốc La Mã Thần thánh.[3] Trong thế kỷ 16, các khu vực miền bắc Đức trở thành trung tâm của Cải cách Tin Lành.

Năm 1871, Đức trở thành một quốc gia dân tộc khi hầu hết các quốc gia Đức thống nhất trong Đế quốc Đức do Phổ chi phối. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất Cách mạng Đức 1918-1919, Đế quốc này bị thay thế bằng Cộng hòa Weimar theo chế độ nghị viện. Chế độ độc tài quốc xã được hình thành vào năm 1933, dẫn tới Chiến tranh thế giới thứ hai và một nạn diệt chủng. Sau một giai đoạn Đồng Minh chiếm đóng, hai nước Đức được thành lập: Cộng hòa Liên bang Đức Cộng hòa Dân chủ Đức. Năm 1990, quốc gia được tái thống nhất.[4]

Trong thế kỷ 21, Đức là một đại cường quốc và có kinh tế lớn thứ tư thế giới theo GDP danh nghĩa, lớn thứ năm theo sức mua tương đương. Đức đứng hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực công nghiệp và công nghệ, và là nước xuất khẩu và nhập khẩu đều ở vị trí lớn thứ ba thế giới (2015). Đức là một quốc gia phát triển, có tiêu chuẩn sinh hoạt rất cao được duy trì nhờ một xã hội có kỹ năng và năng suất. Liên bang này duy trì một hệ thống an ninh xã hội và chăm sóc y tế phổ quát, bảo vệ môi trường và giáo dục đại học miễn học phí.[5]

Đức là một thành viên sáng lập của Liên minh châu Âu vào năm 1993, là bộ phận của Khu vực Schengen, và trở thành đồng sáng lập của Khu vực đồng euro vào năm 1999. Đức là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, NATO, G8, G20 OECD. Chi tiêu quân sự quốc gia của Đức cao thứ chín thế giới. Đức có lịch sử văn hóa phong phú, liên tục sản sinh nhiều nhân vật có ảnh hưởng trong nghệ thuật, triết học, âm nhạc, thể thao, giải trí, khoa học, kỹ thuật và phát minh.

Tên gọi[sửa]

Tên gọi của nước Đức trong tiếng Việt bắt nguồn từ tên gọi của nước Đức trong tiếng Trung. Trong tiếng Trung nước Đức được gọi là “德意志” (âm Hán Việt: Đức Ý Chí), gọi tắt là “德國” (Đức quốc).[6]

Thuật ngữ Deutschland trong tiếng Đức, ban đầu là diutisciu land ("các vùng người Đức") có nguồn gốc từ deutsch (tương tự dutch), bắt nguồn từ tiếng Thượng Đức Cổ diutisc "dân", ban đầu được sử dụng để phân biệt ngôn ngữ của thường dân khỏi tiếng Latinh và các hậu duệ của nó. Đến lượt mình, nó lại bắt nguồn từ tiếng German nguyên thủy *þiudiskaz "dân", từ *þeudō, bắt nguồn từ tiếng Ấn-Âu nguyên thủy *tewtéh₂- "người", từ "Teuton" cũng bắt nguồn từ đó.[7] Từ Germany trong tiếng Anh bắt nguồn từ Germania trong tiếng Latinh- là từ được sử dụng sau khi Julius Caesar chọn nó để chỉ các dân tộc phía đông sông Rhine.[8]

Lịch sử[sửa]

Tập tin:Nebra Scheibe.jpg
Đĩa bầu trời Nebra], khoảng 1600 TCN

Việc phát hiện Di cốt Mauer cho thấy rằng người cổ đại hiện diện tại Đức từ ít nhất là 600.000 năm trước.[9] Các vũ khí săn bắn hoàn thiện cổ nhất được phát hiện trên thế giới nằm trong một mỏ than tại Schöningen, tại đó khai quật được ba chiếc lao bằng gỗ có niên đại 380.000 năm.[10] Thung lũng Neandertal là địa điểm phát hiện di cốt người phi hiện đại đầu tiên từng biết đến; loài người mới được gọi là Neanderthal. Các hóa thạch Neanderthal 1 được cho là 40.000 năm tuổi. Bằng chứng về người hiện đại, có niên đại tương tự, được phát hiện trong các hang tại Dãy Schwäbische Alb gần Ulm. Trong những vật tìm thấy có các sáo bằng xương chim và ngà voi ma mút 42.000 năm tuổi- là các nhạc cụ cổ nhất từng phát hiện được,[11] Tượng người sư tử thời đại băng hà 40.000 năm tuổi là nghệ thuật tạo hình không thể tranh luận cổ nhất từng phát hiện được,[12] Tượng Venus ở Hohle Fels 35.000 năm tuổi là nghệ thuật tạo hình con người không thể tranh luận cổ nhất từng phát hiện được.[13] Đĩa bầu trời Nebra là một đồ tạo tác bằng đồng điếu được tạo ra trong thời đại đồ đồng châu Âu được quy cho một địa điểm gần Nebra, Sachsen-Anhalt. Nó nằm trong Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO.[14]

Các bộ lạc German và Đế quốc Frank[sửa]

Tập tin:Invasions of the Roman Empire 1.png
Di cư tại châu Âu (100–500 CN)

Các bộ lạc German được cho là có niên đại từ Thời đại đồ đồng Bắc Âu hoặc Thời đại đồ sắt tiền La Mã. Từ miền nam Scandinavia và miền bắc Đức ngày nay, họ bành trướng về phía nam, đông và tây từ thế kỷ 1 TCN, tiếp xúc với các bộ lạc Celt tại Gallia, cũng như với các bộ lạc Iran, Balt, Slav tại Trung và Đông Âu.[15] Dưới thời Augustus, La Mã bắt đầu xâm chiếm khu vực Germania (tức khu vực có cư dân chủ yếu là người German). Năm 9 CN, ba quân đoàn La Mã dưới quyền Varus thất bại trước thủ lĩnh Arminius của bộ lạc Cherusker. Đến năm 100 CN, khi Tacitus viết sách Germania, các bộ lạc German đã định cư dọc Sông Rhine và Sông Danube, chiếm hầu hết lãnh thổ Đức ngày nay; tuy nhiên Áo, Baden-Württemberg, miền nam Bayern, miền nam Hesse và miền tây Rheinland là các tỉnh của La Mã.[16]

Đến thế kỷ 3, một số lượng lớn các bộ lạc Tây German nổi lên: Alemanni, Frank, Chatti, Sachsen, Frisii, Sicambri và Thuringii. Khoảng năm 260, các dân tộc German đột nhập vào các khu vực do La Mã kiểm soát.[17] Sau cuộc xâm chiếm của người Hung vào năm 375, và La Mã suy tàn từ năm 395, các bộ lạc German di chuyển xa hơn về phía tây-nam. Một vài bộ lạc lớn được hình thành đồng thời tại khu vực nay là Đức và thay thế hoặc hấp thu các bộ lạc German nhỏ hơn. Các khu vực lớn được biết đến từ giai đoạn Merowinger với tên gọi Austrasia, Neustria, và Aquitaine bị người Frank chinh phục, họ lập ra Vương quốc Frank. và bành trướng hơn nữa về phía đông nhằm khuất phục Sachsen và Bayern. Các khu vực nay là phần đông của Đức là nơi các bộ lạc Tây Slav cư trú: Sorb, Veleti và liên minh Obotrit.[16]

Đông Frank và Đế quốc La Mã Thần thánh[sửa]

Năm 800, Quốc vương Frank Charlemagne đăng quang hoàng đế và lập ra Đế quốc Karoling, đế quốc này tồn tại đến năm 843 thì bị các người thừa kế của ông phân chia.[18] Sau khi Vương triều Frank tan vỡ, lịch sử Đức trong vòng 900 năm gắn chặt với lịch sử của Đế quốc La Mã Thần thánh,[19] là thế lực nổi lên sau đó từ phần phía đông đế quốc ban đầu của Charlemagne. Lãnh thổ ban đầu được gọi là Đông Frank trải dài từ Sông Rhine ở phía tây đến Sông Elbe ở phía đông, và từ Biển Bắc đến Dãy Alpen.[18]

Những quân chủ của vương triều Otto (919–1024) hợp nhất một số công quốc lớn và Quốc vương người German/Đức Otto I đăng quang Hoàng đế La Mã Thần thánh của các khu vực này vào năm 962. Năm 996, Giáo hoàng Grêgôriô V trở thành giáo hoàng người Đức đầu tiên, do người họ hàng của ông là Otto III bổ nhiệm- không lâu sau đăng quang Hoàng đế La Mã Thần thánh. Đế quốc La Mã Thần thánh sáp nhập miền bắc Ý ngày nay và khu vực Bourgogne nay thuộc Pháp dưới thời trị vì của các hoàng đế thuộc gia tộc Salier (1024–1125), song các hoàng đế mất đi quyền lực do tranh luận phong chức với giáo hội.[20]

Trong thế kỷ 12, dưới thời các hoàng đế thuộc gia tộc Staufer (1138–1254), các vương công Đức thay vào đó gia tăng ảnh hưởng của họ về phía nam và phía đông đến các lãnh thổ mà người Slav cư trú; họ khuyến khích người Đức định cư tại các khu vực này, gọi là phong trào định cư miền đông là (Ostsiedlung). Các thành viên của Liên minh Hanse hầu hết là các thành thị miền bắc Đức, họ thịnh vượng nhờ mở rộng mậu dịch.[21] Tại phương nam, Công ty Mậu dịch Đại Ravensburg (Große Ravensburger Handelsgesellschaft) giữ chức năng tương tự. Hoàng đế Karl IV hành hành sắc chỉ Goldene Bulle vào năm năm 1356, tạo cấu trúc hiến pháp cơ bản của Đế quốc, và hệ thống hóa tuyển cử hoàng đế bởi bảy tuyển đế hầu- những người cai trị một số thân vương quốc và tổng giáo phận mạnh nhất.[22]

Dân số suy giảm trong nửa đầu thế kỷ 14, bắt đầu từ nạn đói lớn năm 1315, tiếp đến là Cái chết Đen năm 1348–50.[23] Tuy vậy, các nghệ sĩ, kỹ sư và nhà khoa học Đức phát triển một loạt các kỹ thuật tương tự như thứ được các nghệ sĩ và nhà thiết kế Ý sử dụng vào đương thời, những người phát triển hưng thịnh tại các thành bang thương nghiệp như Venezia, Firenze Genova. Các trung tâm nghệ thuật và văn hóa khắp các quốc gia Đức sản sinh các nghệ sĩ như họa sĩ Hans Holbein và con trai, và Albrecht Dürer. Johannes Gutenberg giới thiệu in ấn kiểu di động đến châu Âu, một bước phát triển đặt cơ sở để truyền bá kiến thức đến đại chúng.[24]

Năm 1517, tu sĩ Martin Luther công khai hóa 95 luận đề, thách thức Giáo hội Công giáo La Mã và khởi xướng Cải cách Tin Lành. Năm 1555, Hòa ước Augsburg công nhận Giáo hội Luther là một lựa chọn có thể chấp thuận cho Công giáo La Mã, song cũng ra sắc chỉ rằng đức tin của vương công là đức tin của các thần dân của ông ta, một nguyên tắc gọi là "lãnh địa của ai thì tôn giáo theo người đó". Thỏa thuận tại Augsburg thất bại trong việc xác định các đức tin tôn giáo khác: chẳng hạn đức tin Cải cách vẫn bị cho là dị giáo và nguyên tắc không giải quyết khả năng cải đạo của một người thống trị giáo hội, như từng diễn ra tại Tuyển hầu quốc Köln vào năm 1583. Từ Chiến tranh Köln cho đến khi kết thúc Chiến tranh Ba mươi Năm (1618–1648), xung đột tôn giáo tàn phá các vùng đất Đức.[25] Chiến tranh Ba mươi Năm làm giảm dân số tổng thể của các quốc gia Đức đến khoảng 30%, và lên đến 80% tại một số nơi.[26] Hòa ước Westfalen kết thúc chiến tranh tôn giáo giữa các quốc gia Đức.[25] Các quân chủ Đức có thể lựa chọn Công giáo La Mã, Giáo hội Luther hay đức tin Cải cách làm tôn giáo chính thức của họ sau năm 1648.[27]

Trong thế kỷ 18, Đế quốc La Mã Thần thánh gồm có khoảng 1.800 lãnh thổ.[28] Hệ thống pháp lý phức tạp khởi đầu từ một loạt cải cách (khoảng 1450–1555) tạo ra các lãnh thổ đế quốc, và tạo ra quyền tự trị địa phương đáng kể tại các quốc gia tăng lữ, thế tục và thế tập, được phản ánh tại Quốc hội Đế quốc. Gia tộc Habsburg nắm giữ đế vị từ năm 1438 cho đến khi Karl VI mất vào năm 1740. Do không có nam giới thừa kế, ông thuyết phục các tuyển đế hầu duy trì quyền bá chủ của gia tộc Habsburg đối với chức hoàng đế bằng việc chấp thuận một chiếu thư vào năm 1713. Điều này cuối cùng được giải quyết nhờ Chiến tranh Kế vị Áo; theo Hiệp ước Aix-la-Chapelle, chồng của Công chúa Maria Theresa trở thành Hoàng đế La Mã Thần thánh, còn bà cai trị đế quốc với thân phận hoàng hậu. Từ năm 1740, cạnh tranh giữa Vương triều Habsburg Áo và Vương quốc Phổ chi phối lịch sử Đức.

Năm 1772, sau đó là vào năm 1793 và 1795, hai quốc gia Đức chiếm ưu thế là Phổ và Áo, cùng với Đế quốc Nga thỏa thuận phân chia Ba Lan với nhau. Kết quả là, hàng triệu cư dân nói tiếng Ba Lan thuộc quyền thống trị của hai chế độ quân chủ Đức. Tuy nhiên, các lãnh thổ bị sáp nhập vào Phổ và Áo không được nhìn nhận về pháp lý là bộ phận của Đế quốc La Mã Thần thánh.[29][30]

Trong thời kỳ Chiến tranh Cách mạng Pháp, cùng với việc xuất hiện thời kỳ Napoléon và sau đó là phiên họp cuối cùng của Quốc hội Đế quốc, hầu hết các thành phố đế quốc tự do thế tục được sáp nhập vào lãnh thổ của các vương triều; các lãnh thổ tăng lữ bị thế tục hóa và sáp nhập. Năm 1806, Đế quốc La Mã Thần thánh bị giải thể; các quốc gia Đức, đặc biệt là các quốc gia Rheinland, nằm dưới ảnh hưởng của Pháp. Cho đến năm 1815, Nga, Phổ và Vương triều Habsburg cạnh tranh quyền bá chủ trong các quốc gia Đức thời Chiến tranh Napoléon.[31]

Bang liên và Đế quốc Đức[sửa]

Sau khi Napoléon thất bại, Đại hội Wien (triệu tập vào năm 1814) hình thành Bang liên Đức (Deutscher Bund), một liên minh không chặt chẽ của hàng chục quốc gia có chủ quyền. Hoàng đế Áo được bổ nhiệm làm tổng thống vĩnh viễn của Bang liên, phản ánh việc Đại hội không chấp thuận ảnh hưởng của Phổ trong các quốc gia Đức, và làm trầm trọng cạnh tranh trường kỳ giữa quyền lợi của gia tộc Hohenzollern cai trị Phổ và gia tộc Habsburg cai trị Áo. Bất đồng về kết quả của Đại hội góp phần khiến các phong trào tự do nổi lên, tiếp đó là các biện pháp đàn áp mới của chính khách Áo Metternich. Liên minh thuế quan Zollverein xúc tiến thống nhất kinh tế trong các quốc gia Đức.[32] Các tư tưởng dân tộc và tự do của Cách mạng Pháp được ủng hộ ngày càng tăng trong nhiều người Đức, đặc biệt là thanh niên. Lễ hội Hambach vào tháng 5 năm 1832 là một sự kiện chính nhằm ủng hộ thống nhất Đức, tự do và dân chủ. Trong bối cảnh một loạt phong trào cách mạng diễn ra tại châu Âu, lập ra một cộng hòa tại Pháp, giới trí thức và thường dân bắt đầu tiến hành cách mạng tại các quốc gia Đức vào năm 1848. Quốc vương Friedrich Wilhelm IV của Phổ được đề nghị tước hiệu hoàng đế song với quyền lực hạn chế; ông bác bỏ đế vị và đề xuất hiến pháp, dẫn đến một bước lùi tạm thời cho phong trào.[33]

Tập tin:Wernerprokla.jpg
Thành lập Đế quốc Đức tại Versailles vào năm 1871. Bismarck tại trung với với đồng phục màu trắng.

Quốc vương Wilhelm I bổ nhiệm Otto von Bismarck làm Thủ tướng Phổ vào năm 1862. Bismarck kết thúc thắng lợi chiến tranh với Đan Mạch vào năm 1864, giúp xúc tiến lợi ích của Đức tại bán đảo Jylland. Tiếp đến là thắng lợi quyết định của Phổ trong chiến tranh với Áo vào năm 1866, cho phép Bismarck lập ra Bang liên Bắc Đức (Norddeutscher Bund) không bao gồm Áo. Sau khi Pháp thất bại trong Chiến tranh Pháp-Phổ, các vương công Đức tuyên bố thành lập Đế quốc Đức vào năm 1871 tại Versailles, thống nhất toàn bộ các bộ phận rải rác của Đức ngoại trừ Áo. Phổ là quốc gia cấu thành chi phối đế quốc mới; Quốc vương Phổ thuộc gia tộc Hohenzoller cai trị Đức với thân phận Hoàng đế, và Berlin trở thành thủ đô của đế quốc.[33]

Trong giai đoạn Gründerzeit sau khi Thống nhất nước Đức, chính sách ngoại giao của Thủ tướng Đức Bismarck dưới quyền Hoàng đế Wilhelm I là đảm bảo vị thế đại quốc của Đức bằng các liên minh giả mạo, cô lập Pháp theo các cách thức ngoại giao, và tránh chiến tranh. Dưới thời Wilhelm II, Đức tương tự các cường quốc châu Âu khác bước vào tiến trình chủ nghĩa đế quốc, dẫn đến xích mích với các quốc gia láng giềng. Hầu hết các liên minh mà Đức tham gia trước đó không được gia hạn. Kết quả là hình thành một liên minh kép với Đế quốc Áo-Hung đa dân tộc. Sau đó, Liên minh Tam cường 1882 có thêm Ý, hoàn thành một liên minh địa lý Trung Âu, thể hiện lo ngại của người Đức, Áo và Ý trước khả năng Pháp và/hoặc Nga xâm nhập chống lại họ. Tương tự, Anh, Pháp và Nga cũng dàn xếp liên minh nhằm bảo vệ họ chống lại can thiệp của Vương triều Habsburg đến các quyền lợi của Nga tại Balkan hay Đức can thiệp chống Pháp.[34]

Tại Hội nghị Berlin vào năm 1884, Đức yêu sách một vài thuộc địa gồm Đông Phi thuộc Đức, Tây-Nam Phi thuộc Đức, Togoland Kamerun.[35] Sau đó, Đức bành trướng đế quốc thực dân của minh thêm đến Tân Guinea thuộc Đức, Micronesia thuộc Đức và Samoa thuộc Đức tại Thái Bình Dương, và Vịnh Giao Châu tại Trung Quốc. Từ năm 1904 đến năm 1907, chính phủ thực dân Đức tại Tây-Nam Phi (nay là Namibia) ra lệnh tiêu diệt người bản địa Herero và Namaqua.[36][37]

Vụ ám sát thái tử của Áo vào ngày 28 tháng 6 năm 1914 tạo cớ để Đế quốc Áo-Hung tấn công Serbia và kích hoạt Chiến tranh thế giới thứ nhất. Sau bốn năm giao tranh, có khoảng hai triệu binh sĩ Đức bị giết,[38] một thỏa thuận đình chiến tổng thể kết thúc giao tranh vào ngày 11 tháng 11, và các binh sĩ Đức trở về quê. Trong Cách mạng Đức tháng 11 năm 1918, Hoàng đế Wilhelm II và toàn bộ các vương công cai trị tại Đức phải thoái vị. Ban lãnh đạo chính trị mới của Đức ký kết Hòa ước Versailles vào năm 1919. Theo hiệp định này, Đức với tư cách là bộ phận của Liên minh Trung tâm chấp thuận chiến bại trước Đồng Minh. Người Đức nhận định hiệp định này là điều sỉ nhục và bất công, và sau này được các sử gia cho là ảnh hưởng đến việc Adolf Hitler vươn lên.[39][40][41] Sau khi chiến bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đức bị mất khoảng 30% lãnh thổ của họ tại châu Âu (các khu vực này có cư dân chủ yếu là người thuộc dân tộc Ba Lan, Pháp và Đan Mạch), và toàn bộ thuộc địa tại châu Phi và Thái Bình Dương.[42]

Cộng hòa Weimar và Đức Quốc Xã[sửa]

Đức được tuyên bố là một nước cộng hòa vào đầu Cách mạng Đức tháng 11 năm 1918. Đến ngày 11 tháng 8 năm 1919, Tổng thống Friedrich Ebert ký Hiến pháp Weimar dân chủ.[43] Trong đấu tranh quyền lực tiếp sau, phái cộng sản cánh tả cấp tiến đoạt quyền tại Bayern, song các thành phần bảo thủ tại các địa phương khác của Đức nỗ lực lật đổ Cộng hòa trong Kapp Putsch. Nó nhận được ủng hộ từ một bộ phận trong Reichswehr (quân sự) và các phái bảo thủ, dân tộc và bảo hoàng khác. Sau một giai đoạn náo loạn có giao tranh đổ máu trên đường phố tại các trung tâm công nghiệp lớn, binh sĩ Bỉ và Pháp chiếm đóng Ruhr và lạm phát gia tăng với đỉnh điểm là lạm phát phi mã năm 1922-1923, một kế hoạch tái cơ cấu nợ và tạo một tiền tệ mới vào năm 1924 mở ra Thập niên 20 hoàng kim, một thời kỳ gia tăng sáng tạo nghệ thuật và sinh hoạt văn hóa tự do. Tuy nhiên, bên dưới đó lại tạo ra luồng tư tưởng oán hận và thất vọng về Hòa ước Versailles, được nhìn nhận phổ biến là đâm sau lưng, tạo cơ sở tư tưởng bài Do Thái trong các thập niên sau.[44] Các sử gia mô tả giai đoạn từ 1924 đến 1929 là "ổn định cục bộ".[45] Đại khủng hoảng toàn cầu lan đến Đức vào năm 1929. Sau bầu cử liên bang vào năm 1930, chính phủ của Thủ tướng Heinrich Brüning được Tổng thống Paul von Hindenburg trao quyền hành động mà không cần nghị viện phê chuẩn. Chính phủ của Brüning theo đuổi chính sách khắc khổ tài chính và giảm lạm phát, dãn đến tỷ lệ thất nghiệp cao đến gần 32% vào năm 1932.[46]

Đảng Quốc xã dưới quyền lãnh đạo của Adolf Hitler giành thắng lợi trong bầu cử liên bang đặc biệt năm 1932. Sau một loạt các nội các thất bại, Hindenburg bổ nhiệm Hitler làm thủ tướng của Đức vào năm 1933.[47] Sau vụ hỏa hoạn tại Tòa nhà Quốc hội vào cùng năm, một sắc lệnh bãi bỏ các dân quyền cơ bản và trong vài tuần trại tập trung Quốc xã tại Dachau được mở cửa.[48][49] Đạo luật Cho quyền năm 1933 trao cho Hitler quyền lực lập pháp không bị hạn chế; sau đó, chính phủ của ông tạo ra một nhà nước toàn trị tập trung hóa, rút khỏi Hội Quốc Liên sau một cuộc trưng cầu dân ý quốc gia, và bắt đầu tái vũ trang quân sự.[50]

Sử dụng chi tiêu thâm hụt, môt chương trình do chính phủ bảo trợ nhằm khôi phục kinh tế tập trung vào các dự án công trình công cộng. Trong các dự án công trình cộng cộng vào năm 1934, 1,7 triệu người Đức lập tức có công việc, trao cho họ thu nhập và phúc lợi xã hội.[51] Dự án nổi tiếng nhất là đường bộ cao tốc gọi là autobahn.[52] Các dự án xây dựng chủ yếu khác gồm các hạ tầng thủy điện như Đập Rur, cung cấp nước như Đập Zillierbach, và trung tâm vận chuyển như Ga Zwickau Hauptbahnhof.[53] Trong 5 năm tiếp theo, tỷ lệ thất nghiệp giảm mạnh và lương trung bình theo giờ và theo tuần đều tăng lên.[54]

Năm 1935, chế độ Quốc xã rút khỏi Hòa ước Versailles và áp dụng Luật Nürnberg nhắm mục tiêu vào người Do Thái và các dân tộc thiểu số khác. Đức cũng giành lại quyền kiểm soát Saar vào năm 1935,[55] sáp nhập Áo vào năm 1938, và chiếm đóng Tiệp Khắc vào đầu năm 1939 bất chấp Hiệp ước München.

Tháng 9 năm 1939, chính phủ của Hitler đàm phán và ký kết Hiệp ước Molotov–Ribbentrop theo đó phân chia Đông Âu thành các khu vực ảnh hưởng của Đức và Liên Xô. Sau hiệp ước này, vào ngày 1 tháng 9 năm 1939 Đức xâm chiếm Ba Lan, đánh dấu bắt đầu Chiến tranh thế giới thứ hai.[56][57] Phản ứng trước hành động của Hitler, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức.[58] Đến mùa xuân năm 1940, Đức chinh phục Đan Mạch và Na Uy, Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, và Pháp. Anh Quốc đẩy lui các cuộc không kích của Đức trong Không chiến tại Anh Quốc vào cùng năm. Đến năm 1941, binh sĩ Đức xâm chiếm Nam Tư, Hy Lạp Liên Xô. Đến năm 1942, Đức và các thế lực Phe Trục khác kiểm soát hầu hết châu Âu lục địa và Bắc Phi, song từ sau chiến thắng của Liên Xô trong Trận Stalingrad, Đồng Minh tái chiếm Bắc Phi và xâm chiếm Ý vào năm 1943, quân Đức chịu các thất bại quân sự liên tiếp.[56] Đến tháng 6 năm 1944, Đồng Minh phương Tây đổ bộ tại Pháp và Liên Xô tiến vào Đông Âu. Sau khi Hitler tự sát trong Trận Berlin, quân đội Đức đầu hàng vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai tại châu Âu.[59]

Trong các hành động mà về sau được gọi là Holocaust, chính phủ Đức ngược đãi các cộng đồng thiểu số và sử dụng một hệ thống trại tập trung và hành quyết trên khắp châu Âu để tiến hành diệt chủng những người mà họ cho là thuộc chủng tộc hạ đẳng. Tổng cộng, có trên 10 triệu thường dân bị sát hại có hệ thống, trong đó có sáu triệu người Do Thái, từ Đức và các quốc gia bị Đức chiếm đóng.[60] Chính sách của Quốc xã tại các quốc gia bị Đức chiếm đóng gây ra cái chết của 2,7 triệu người Ba Lan,[61] 1,3 triệu người Ukraina,[62] và ước tính lên đến 2,8 triệu tù binh Liên Xô.[62][63] Số binh sĩ Đức tử vong do chiến tranh ước tính là 3,2-5,3 triệu,[64] và có đến 2 triệu thường dân Đức thiệt mạng.[65] Khoảng 12 triệu người dân tộc Đức bị trục xuất khỏi Đông Âu (gồm lãnh thổ bị mất). Đức phải nhượng lại khoảng một phần tư lãnh thổ trước chiến tranh của mình.[4] Sau chiến tranh, nhiều cựu thành viên của chế độ Quốc xã bị xét xử vì tội ác chiến tranh tại Tòa án Nürnberg.[63][66]

Đông và Tây Đức[sửa]

Tập tin:Map-Germany-1945.svg
Các khu vực chiếm đóng tại Đức vào năm 1947. Các lãnh thổ về phía đông Giới tuyến Oder-Neisse bị Ba Lan và Liên Xô sáp nhập, và Pháp kiểm soát Lãnh thổ bảo hộ Saar do Pháp kiểm soát có màu vàng nhạt.

Sau khi Đức đầu hàng, Đồng Minh phân chia Berlin và lãnh thổ còn lại của Đức thành bốn khu vực chiếm đóng quân sự. Các khu vực miền tây do Pháp, Anh và Hoa Kỳ kiểm soát được hợp nhất vào ngày 23 tháng 5 năm 1949 để hình thành Cộng hòa Liên bang Đức (Bundesrepublik Deutschland); đến ngày 7 tháng 10 năm 1949, khu vực do Liên Xô chiếm đóng trở thành Cộng hòa Dân chủ Đức (Deutsche Demokratische Republik). Hai quốc gia lần lượt được gọi không chính thức là "Tây Đức" và "Đông Đức". Đông Đức chọn Đông Berlin làm thủ đô, còn Tây Đức chọn Bonn làm thủ đô lâm thời, nhằm nhấn mạnh lập trường của mình rằng giải pháp hai nhà nước là một tình trạng nhân tạo và tạm thời.[67]

Tây Đức là một nước cộng hòa nghị viện liên bang, theo "kinh tế thị trường xã hội". Bắt đầu vào năm 1948 Tây Đức trở thành một quốc gia nhận viện trợ tái thiết chính trong Kế hoạch Marshall và sử dụng viện trợ này để tái thiết ngành công nghiệp của mình.[68] Konrad Adenauer được bầu làm thủ tướng liên bang (Bundeskanzler) đầu tiên của Đức vào năm 1949 và vẫn giữ chức vụ này cho đến năm 1963. Dưới quyền lãnh đạo của ông và Ludwig Erhard, Tây Đức có tăng trưởng kinh tế dài hạn bắt đầu vào đầu thập niên 1950, được cho là một "kì tích kinh tế" (Wirtschaftswunder).[69] Tây Đức gia nhập NATO vào năm 1955 và là một thành viên sáng lập của Cộng đồng Kinh tế châu Âu vào năm 1957.

Đông Đức là một quốc gia thuộc Khối phía Đông, nắm dưới quyền kiểm soát chính trị và quân sự của Liên Xô thông qua lực lượng chiếm đóng và Khối Warszawa. Mặc dù Đông Đức tự nhận là một quốc gia dân chủ, song quyền lực chính trị do các thành viên Bộ chính trị của Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức độc quyền thi hành, được hỗ trợ từ cơ quan an ninh mật Stasi.[70] Một nền kinh tế chỉ huy theo kiểu Liên Xô được lập nên và Đông Đức trở thành một quốc gia thuộc Hội đồng Tương trợ Kinh tế SEV.[71] Tuyên truyền của Đông Đức dựa trên quyền lợi của các chương trình xã hội do chính phủ thực hiện, và liên tục cáo buộc mối đe dọa về Tây Đức xâm chiếm, song nhiều công dân của Đông Đức nhìn nhận phương Tây đại diện cho tự do và thịnh vượng.[72] Bức tường Berlin được xây dựng vào năm 1961 ngằm ngăn người Đông Đức đào thoát sang Tây Đức, nó trở thành một tượng trưng cho Chiến tranh Lạnh.[33] Sự kiện bức tường này sụp đổ vào năm 1989 trở thành một tượng trưng cho chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, tái thống nhất Đức và bước ngoặt tại Đông Đức (Die Wende).[73]

Căng thẳng giữa Đông Đức và Tây Đức giảm thiểu vào đầu thập niên 1970 do chính sách mới của Thủ tướng Willy Brandt đối với phía Đông. Trong mùa hè năm 1989, Hungary quyết định phá Bức màn sắt và mở cửa biên giới, khiến hàng nghìn người Đông Đức nhập cư đến Tây Đức qua Hungary. Điều này có tác động tàn phá đến Đông Đức, tại đây các cuộc tuần hành đại chúng định kỳ nhận được ủng hộ ngày càng lớn. Nhà đương cục Đông Đức nới lỏng hạn chế biên giới, cho phép công dân Đông Đức đi sang Tây Đức; ban đầu nhằm giúp duy trì Đông Đức, song việc mở cửa biên giới thực tế dẫn đến tăng tốc chương trình cải cách Wende. Đỉnh điểm của chương trình này là Hiệp ước 2 + 4 vào ngày 12 tháng 9 năm 1990, theo đó bốn thế lực chiếm đóng từ bỏ mọi quyền lợi của họ theo Văn kiện Đầu hàng trước đây, và Đức thu hồi chủ quyền đầy đủ. Điều này cho phép Tái thống nhất Đức vào ngày 3 tháng 10 năm 1990, khi Cộng hòa Liên bang Đức tiếp nhận năm bang tái lập của Cộng hòa Dân chủ Đức cũ.[33]

Nước Đức Thống nhất[sửa]

Tập tin:Reichstag building Berlin view from west before sunset.jpg
Đức thống nhất vào ngày 3 tháng 10 năm 1990.[74] Từ năm 1999, Tòa nhà Quốc hội tại Berlin là nơi hội họp của Quốc hội Liên bang Đức.

Nước Đức thống nhất được nhìn nhận là sự mở rộng thêm Cộng hòa Liên bang Đức và không phải là một quốc gia kế thừa. Do đó, họ duy trì toàn bộ tư cách thành viên của Tây Đức trong các tổ chức quốc tế.[75] Dựa theo Đạo luật Berlin/Bonn được thông qua vào năm 1994, Berlin lại trở thành thủ đô của nước Đức tái thống nhất, trong khi Bonn duy trì vị thế duy nhất là một Bundesstadt (thành phố liên bang) giữ lại một số bộ của liên bang.[76] Việc di chuyển chính phủ hoàn thành vào năm 1999.[77] Sau bầu cử năm 1998, chính trị gia Gerhard Schröder của SPD trở thành thủ tướng đầu tiên của một liên minh đỏ-lục với đảng Liên minh 90/Đảng Xanh.

Hiện đại hóa và hội nhập kinh tế miền đông nước Đức là một quá trình lâu dài, được dự trù kéo dài cho đến năm 2019, với chuyển khoản hàng năm từ miền tây sang miền đông lên đến khoảng 80 tỷ USD.[78]

Tập tin:Tratado de Lisboa 13 12 2007 (081).jpg
Đức trở thành một đồng sáng lập của Liên minh châu Âu (1993), sử dụng tiền Euro (2002), và ký kết Hiệp ước Lisboa vào năm 2007 (hình).

Kể từ khi tái thống nhất, Đức giữ một vai trò tích cực hơn trong Liên hiệp châu Âu. Cùng với các đối tác châu Âu, Đức ký kết Hiệp ước Maastricht vào năm 1992, lập ra Khu vực đồng euro vào năm 1999, và ký kết Hiệp ước Lisbon vào năm 2007.[79] Đức phái một lực lượng duy trì hòa bình đi đảm bảo ổn định tại Balkan và phái một lực lượng binh sĩ Đức đến Afghanistan trong một nỗ lực của NATO nhằm cung cấp an ninh tại đó sau khi Taliban bị lật đổ.[80] Các hành động triển khai này gây tranh luận do Đức hạn chế do luật của Đức chỉ cho phép triển khai binh sĩ trong vai trò phòng thủ.[81]

Sau bầu cử năm 2005, Angela Merkel trở thành nữ thủ tướng đầu tiên của Đức với vị thế là thủ lĩnh một đại liên minh.[33] Năm 2009, chính phủ Đức phê chuẩn một kế hoạch kích thích kinh tế trị giá 50 tỷ euro nhằm bảo vệ một vài lĩnh vực khỏi suy thoái.[82]

Năm 2009, một liên minh tự do-bảo thủ dưới quyền Angela Merkel nắm quyền lãnh đạo quốc gia. Năm 2013, một đại liên minh được lập ra trong nội các thứ ba của Angela Merkel. Trong số các dự án chính trị lớn của Đức vào đầu thế kỷ 21 có tiến bộ của hội nhập châu Âu, chuyển đổi năng lượng (Energiewende) sang nguồn cung cấp năng lượng bền vững, các biện pháp nhằm tăng tỷ lệ sinh, và các chiến lược công nghệ cao nhằm chuyển đổi tương lai nền kinh tế Đức, tổng kết là Công nghiệp 4.0.[83]

Đức chịu tác động từ khủng hoảng di cư châu Âu năm 2015 khi quốc gia này trở thành điểm đến cuối cùng trong lựa chọn của hầu hết di dân vào EU. Quốc gia này tiếp nhận trên một triệu người tị nạn và phát triển một hệ thống hạn ngạch nhằm tái phân bổ các di dân khắp các bang của mình dựa trên thu nhập từ thuế và mật độ dân cư hiện hữu.[84]

Địa lý[sửa]

Xem chi tiết: Địa lý Đức

Vị trí[sửa]

Nước Đức nằm trong Trung Âu, giữa 47°16′15″ và 55°03′33″ vĩ độ bắc và 5°52′01″ và 15°02′37″ kinh độ đông. Về phía bắc Đức có ranh giới với Đan Mạch (có chiều dài 67 km), về phía đông-bắc là Ba Lan (442 km), về phía đông là Séc 811 km), về phía đông nam là Áo (815 km không kể ranh giới trên hồ Bodensee), về phía nam là Thụy Sĩ (316 km, với biên giới của lãnh thổ bên ngoài (tiếng Anh: exclave) Büsingen nhưng không kể ranh giới trên hồ Bodensee), về phía tây nam là Pháp (448 km), về phía tây là Luxembourg (135 km) và Bỉ (156 km) và về phía tây bắc là Hà Lan (567 km).[85] Chiều dài ranh giới tổng cộng là 3.757 km. Trong khi ở phía tây-Bắc bờ biển của biển Bắc và ở phía đông-Bắc là biển Baltic tạo thành biên giới quốc gia tự nhiên thì về phía nam nước Đức là một phần của dãy núi Alpen.

Lãnh thổ bên ngoài duy nhất của Đức là Büsingen nằm trong vùng thượng lưu sông Rhein thuộc về huyện Konstanz của bang Baden-Württemberg. Büsingen có diện tích là 7,62 km² và được bao bọc hoàn toàn bởi 3 bang Schaffhausen, Thurgau Zürich. Ngoài ra còn có Kleinwalsertal thuộc Áo và nếu bằng đường bộ hay bằng đường thủy thì chỉ xuyên qua lãnh thổ quốc gia Đức mới có thể đến được.

Điểm trung tâm và các điểm ngoài cùng của Đức[sửa]

Theo Sách thống kê hằng năm Đức (Statistisches Jahrbuch Deutschland – thời điểm năm 2000) điểm trung tâm về địa lý của Đức nằm trong làng Niederdorla thuộc bang Thüringen, giữa đoạn đường từ Erfurt đến Göttingen, trên 51°09´54´´ vĩ độ bắc và 10°27´19´´ kinh độ đông.

Điểm cực bắc của Đức nằm trên bán đảo Elenbogen thuộc đảo Sylt, điểm cực bắc trên đất liền của quốc gia nằm trên bờ biển tây của bang Schleswig-Holstein tại Rickelsbüller Koog, điểm cực nam là Haldenwanger Eck nằm về phía nam của Oberstdorf (Bayern) trên núi Alpen. Từ Ellenbogen đến Haldenwanger Eck là khoảng 886 km (đường chim bay).

Điểm cực tây của Đức nằm trong bang Nordrhein-Westfalen, không xa Isenbruch (là địa danh cực tây của quốc gia), điểm cực đông nằm giữa Neißeaue-Deschka (làng cực đông của quốc gia) và Neißeaue-Zentendorf trong một vòng cung của sông Neiße. Từ Isenbruch đến vòng cung này của sông Neiße gần Zentendorf là tròn 636 km (đường chim bay).

Địa hình[sửa]

Tập tin:Deutschland topo.png
Bản đồ địa hình nước Đức

Địa hình thay đổi đặc biệt là theo hướng từ Bắc vào Nam vì địa thế có chiều hướng cao hơn và dốc hơn về phía nam. Phần miền Bắc của nước Đức, vùng đồng bằng Bắc Đức, là một vùng đồng bằng mà phần lớn được tạo thành từ thời kỳ Băng hà, kế tiếp về phía nam là vùng đồi núi có rừng ở trung tâm và các phần đất miền Nam của Đức. Đặc biệt là tại bang Bayern nhưng cũng ở tại bang Baden-Württemberg địa hình này chuyển tiếp đến vùng Alpenvorland Bắc tương đối cao, vùng mà sau đấy lại chuyển tiếp đến vùng núi cao của dãy núi Alpen.

Địa chất[sửa]

Nước Đức đa dạng về địa chất. Trong khi các địa hình mang dấu ấu của thời kỳ Băng hà, các vùng đất thấp và các lưu vực sông chỉ thành hình từ niên đại Phân đại đệ Tam thì vùng đồi núi trung bình có niên đại lâu đời hơn rất nhiều.

Các vùng đồi núi đã bị xói mòn, ví dụ như vùng Rừng Đen (Schwarzwald), đã hình thành từ thời Đại Cổ sinh và được cấu thành chủ yếu từ loại đá xâm nhập (tiếng Anh: plutonic rock) như đá gơnai granite. Vùng Rheinisches Schiefergebirge cũng có niên đại tương tự, được thành hình trong kỷ Silur kỷ Devon. Tại ranh giới về phía bắc của vùng này còn có các thành hệ từ kỷ Than đá, trong đó vùng Ruhr có các mỏ than đá có trữ lượng lớn.

Địa mạo miền Nam nước Đức phần lớn do những phát triển trong Đại Trung Sinh: trong khi Pfalz, Thüringen, nhiều phần của Bayern và Sachsen được tạo thành về mặt địa chất trong kỷ Trias thì vùng Schwäbische Alb Fränkische Alb chạy ngang qua miền Nam nước Đức là kết quả của việc đáy biển nâng lên trong kỷ Juras. Các vùng được nhắc đến đầu tiên có sa thạch, các vùng sau có đá vôi là những thành hệ địa chất chiếm ưu thế.

Hoạt động núi lửa không được quan sát thấy tại Đức. Tuy vậy, trong một số vùng vẫn có đá núi lửa xuất phát từ hoạt động núi lửa trước đây, đặc biệt là trong Vulkaneifel và trên Vogelsberg trong bang Hessen. Nước Đức nằm hoàn toàn trên mảng Á-Âu vì vậy không có những trận Động đất gây hậu quả nặng nề. Mặc dầu vậy đứt gãy Rhein (Rheingraben) thuộc bang Nordrhein-Westfalen được xếp vào vùng nguy hiểm động đất trung bình, kéo dài đến các nước láng giềng Bỉ và Hà Lan (đọc vùng động đất Kölner Bucht).

Sông ngòi[sửa]

Tập tin:Deutsches Eck.jpg
Góc Đức tại Koblenz, nơi hợp lưu của 2 sông Rhein Mosel

Nước Đức giáp biển Bắc tại các bang Niedersachsen Schleswig-Holstein. Đây là một biển nằm trên thềm lục địa thuộc Đại Tây Dương. Cùng với eo biển Manche, vùng phía nam của biển Bắc là vùng biển có mật độ giao thông cao nhất thế giới. Các bang Mecklenburg-Vorpommern Schleswig-Holstein nằm cạnh biển Baltic, là một biển nội địa được nối liền với biển Bắc qua eo biển Skagerrak. Độ thay đổi thủy triều ở biển Baltic ít hơn ở biển Bắc rất nhiều.

Những sông chính là các sông Rhein, Donau, Elbe, Oder, Weser Ems. Dài nhất trong các sông này là sông Donau (tiếng Anh: Danube). Với 2.845 km từ nơi giao lưu của hai sông Brigach Breg và là nguồn của sông Donau tại Donaueschingen hay với 2.888 km từ nguồn của sông Breg tại vùng ranh của Rừng Đen (Schwazwald) sông Donau là sông dài thứ nhì trong châu Âu sau sông Volga. Thế nhưng chỉ một phần nhỏ của toàn bộ đoạn đường của sông Donau là chảy qua Đức (47 km). Sông Donau đổ ra biển Đen.

Tất cả những sông Đức khác chảy ra biển Bắc hay biển Baltic. Đường phân thủy châu Âu qua nước Đức chạy về phía đông của vùng đồng bằng thượng lưu sông Rhein trên chỏm núi chính của vùng Rừng Đen. Trong những sông này sông Rhein chính là con sông có đoạn đường dài nhất trong nước Đức. Trong số 1.320 km đường sông có 865 km nằm trong nước Đức. Thêm vào đó sông này còn có một vai trò tạo cá tính riêng cho người Đức, được kết tụ từ lịch sử và nhiều thần thoại cũng như truyền thuyết. Chức năng kinh tế của con sông này cũng rất quan trọng: sông Rhein là một trong những đường thủy có mật độ giao thông nhiều nhất châu Âu.

Sông Elbe bắt nguồn từ Riesengebirge (tiếng Séc: Krkonoše) tại biên giới của Séc và Ba Lan và đổ ra biển Bắc tại Cuxhaven sau khoản 1.165 km, trong đó là 725 km nằm trong nước Đức. Đã có thời gian sông này là một trong những sông bị ô nhiễm chất độc hại nhiều nhất châu Âu, nhưng trong thời gian gần đây chất lượng nước đã tốt hơn rõ rệt.

Nguồn sông Oder nằm tại Beskiden (tiếng Séc: Beskydy) của Séc. Sau vài ki lô mét sông Oder chảy sang Ba Lan và trung lưu của nó chạy qua Schlesien (tiếng Ba Lan: Śląsk, tiếng Séc: Slezsko). Hạ lưu sông này tạo thành biên giới Đức-Ba Lan để rồi lại đổ vào vùng nước đông Stettin trong lãnh thổ Ba Lan. Qua eo biển Świna dòng sông này chảy qua giữa các đảo Usedom Wollin đổ vào biển Baltic.

Các hồ trong nước Đức phần lớn thành hình sau khi thời kỳ Băng hà chấm dứt. Do vậy mà đa số các hồ lớn nằm trong các vùng đã từng bị băng tuyết bao phủ hay vùng đất cạnh trước đó, đặc biệt là tại Mecklenburg và Alpenvorland. Hồ lớn nhất có phần thuộc Đức là Bodensee, hồ cũng là biên giới của Áo và Thụy Sĩ. Hồ lớn nhất hoàn toàn thuộc về lãnh thổ quốc gia của Đức là Müritz.

Núi và vùng thấp[sửa]

Núi Alpen là dãy núi cao duy nhất mà một phần thuộc về nước Đức.Tại đấy là ngọn Zugspitze (2.962 m), ngọn núi cao nhất Đức. Vùng núi với độ cao trung bình có khuynh hướng cao dần và rộng ra từ Bắc xuống Nam. Ngọn núi cao nhất ở đấy là Feldberg trong vùng Rừng Đen (Schwarzwald) với 1.493 m, kế tiếp là Arber Lớn (Große Arber) trong Rừng Bayern (Bayerischer Wald) với 1.456 m. Ngoài ra, có các ngọn núi trên 1.000 m là các vùng Erzgebirge, Fichtelgebirge, Schwäbische Alb và trường hợp đặc biệt là Harz bị cô lập hẳn như là vùng đồi núi ở về phía bắc nhiều nhất trong các vùng đồi núi của nước Đức với ngọn Brocken nhô cao đến 1.142 m. Về phía bắc của đợt đồi núi này chỉ còn một vài thành hệ địa chất cao hơn 100 m, trong số đó có Hagelberg trong Fläming với 200 m là ngọn cao nhất.

Địa điểm thấp nhất vẫn còn có thể đi được của Đức nằm dưới mực nước biển 3,54 m trong một vùng trũng gần Neuendorf-Sachsenbande trong Wilstermarsch (bang Schlewig-Holstein). Cũng nằm trong bang này là điểm thấp nhất với 39,10 m dưới mực nước biển nằm ở đáy của hồ Hemmelsdorf về phía bắc-đông bắc của Lübeck. Điểm nhân tạo thấp nhất với 293 m dưới mực nước biển nằm ở đáy của mỏ lộ thiên Hambach về phía đông của Jülich trong bang Nordrhein-Westfalen.

Đảo[sửa]

Tập tin:Ruegen-kreidefelsen.jpg
Vách đá vôi trên đảo Rügen

So với chiều dài bờ biển thì Đức có một số lượng đảo đáng kể. Các đảo này trong biển Bắc phần lớn nằm trong dạng hình chuỗi trước đất liền. Chúng được chia ra thành các đảo bắc Friesen và đông Friesen, là một phần của bãi bồi Wattenmeer Đức. Các đảo bắc Friesen của Đức thuộc bang Schleswig-Holstein và bao gồm các đảo lớn Sylt, Föhr, Amrum Pellworm cũng như là các đảo Hallig nhỏ hơn rất nhiều. Từ khi đắp đập Beltringharder Koog thì Nordrand đã trở thành một bán đảo. Các đảo đông Friesen thuộc bang Niedersachsen có độ lớn tương tự. Các đảo này hình thành từ những bãi cát bồi do tác động của sóng biển. Lớn nhất trong các đảo này là Borkum. Một trường hợp ngoại lệ là đảo Helgoland nằm ngoài khơi xa của biển Bắc.

Các đảo trong biển Baltic nằm gần bờ biển Bodden của Đức có chiều hướng lớn hơn và có địa hình thay đổi nhiều hơn. Đảo lớn nhất trong các đảo này và đồng thời cũng là hòn đảo lớn nhất của Đức là Rügen, tiếp theo đó là Usedom mà đầu mũi đảo về phía đông đã thuộc về Ba Lan. Cũng như các đảo trên biển Bắc, các đảo của biển Baltic là điểm đến du lịch được ưa thích.

Trong một số sông hồ nội địa Đức cũng có đảo mà trong đó được biết đến nhiều nhất là Mainau Reichenau trên Bodensee cũng như là Herrenchiemsee trên Chiemsee.

Khí hậu[sửa]

Nước Đức thuộc về vùng khí hậu ôn hòa Trung Âu, trong khu vực của vùng gió Tây và nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa khí hậu biển trong Tây Âu và khí hậu lục địa trong Đông Âu. Ngoài những yếu tố khác, khí hậu chịu ảnh hưởng của dòng hải lưu Golfstream tạo nên những trị khí hậu ấm áp khác thường so với vị trí vĩ độ này.

Điều kiện thời tiết khắt nghiệt như hạn hán kéo dài, gió xoáy (Tornado), băng giá lạnh với nhiệt độ cực thấp hay nóng cao độ tương đối hiếm. Thế nhưng thỉnh thoảng vẫn xuất hiện giông bão mà đã gây ra nhiều thiệt hại nặng như trong năm 2000 2002. Tại Đức cũng thường hay xảy ra nước lũ sau thời gian mưa nhiều trong mùa hè (lũ lụt Oder năm 1997, lũ lụt Elbe năm 2002) hay sau khi tan tuyết trong mùa đông mà có thể dẫn đến lụt và gây tàn phá nặng. Việc hay có nước lũ tại sông Rhein có thể là do việc đắp đập và đào thẳng sông Rhein trong thế kỷ 19 dưới sự lãnh đạo của Tulla đã xóa bỏ các vùng ngập nước tự nhiên trước kia của con sông này. Hạn hán chủ yếu chỉ xảy ra ở vùng đông bắc nước Đức nhưng đôi lúc cũng ảnh hưởng đến trên toàn nước Đức như lần cuối cùng là trong đợt nóng năm 2003.

Số liệu khí hậu (giá trị trung bình của các năm 1961–1990):

Cả năm Tháng trong năm
3 đến 5 6 đến 8 9 đến 11 12 đến 2 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Nhiệt độ trung bình (°C) 8,4 7,8 16,5 9,1 0,9 −0,5 0,5 3,7 7,6 12,2 15,5 17,1 16,9 13,8 9,4 4,2 0,9
Nhiệt độ thấp nhất (°C) 4,6 3,4 11,6 5,5 −2,4 −3,0 −2,5 0,0 3,0 7,3 10,6 12,3 12,0 9,3 5,7 1,6 −1,5
Nhiệt độ cao nhất (°C) 12,4 12,3 21,4 12,8 2,9 2,0 3,4 7,5 12,1 17,2 20,4 22,0 21,9 18,4 13,1 6,9 3,2
Biên độ nhiệt (°C) 7,8 8,8 9,8 7,3 5,2 5,0 5,9 7,4 9,1 9,9 9,8 9,7 9,8 9,0 7,5 5,3 4,7
Số ngày có tuyết 103,9 27,5 0,7 16,9 58,7 21,0 19,3 16,4 9,0 2,2 0,3 0,2 0,2 0,8 4,5 11,6 18,4
Số ngày mưa 178,2 44,0 44,3 43,0 46,8 16,6 13,4 14,9 14,3 14,9 15,1 14,8 14,4 13,6 13,5 15,9 16,8
Lượng nước mưa (mm) 700 163 221 166 150 51 40 48 51 65 77 72 71 57 50 58 59
Áp suất không khí (hPa−1000) 9,3 8,1 13,7 9,9 5,7 5,5 5,5 6,4 7,6 10,2 12,9 14,2 14,2 12,4 9,9 7,3 6,0
Mây (%) 72,0 69,3 63,0 73,8 81,9 83,5 78,0 74,8 69,3 63,8 64,8 63,5 60,6 66,9 72,9 81,5 84,3
Nguồn: Tyndall Centre for Climate Change Report

Tùy theo vùng mà các trị về khí hậu vượt quá hay thấp dưới giá trị trung bình về khí hậu của toàn nước Đức rất nhiều. Miền Nam Baden ghi nhận nhiệt độ trung bình cả năm cao nhất là 11 °C trong khi ở Oberstdorf trị trung bình nằm dưới 6 °C. Thêm vào đó một xu hướng nóng lên đang hình thành: theo số liệu của Deutscher Wetterdienst (Nha khí tượng quốc gia Đức) thì ngoại trừ năm 1996 nhiệt độ trung bình của tất cả các năm từ 1988 đều trên nhiệt độ trung bình lâu năm là 8,3 °C, trong năm 2003 còn đạt đến 9,9 °C. Đặc biệt là mùa hè đã nóng hơn rõ rệt. Thêm vào đó là mùa xuân cứ đến sớm hơn 5 ngày mỗi một thập niên. Chim di trú ở lại Đức lâu hơn gần 1 tháng so với thập niên 1970. Nhiệt độ thấp nhất từng được đo ở Đức là -45,9 °C được ghi nhận vào ngày 24 tháng 12 năm 2003 tại Funtensee. Nhiệt độ cao nhất cho đến nay là 40,3 °C vào ngày 8 tháng 8 năm 2003 tại Nennig.

Đất và sử dụng đất[sửa]

Thành phần và chất lượng đất rất khác nhau tùy theo vùng. Tại miền Bắc Đức một vòng đai gần biển từ đất đầm lầy màu mỡ tạo cơ sở cho một nền nông nghiệp có sản lượng cao trong khi vùng đất cát nằm tiếp sau đó chịu nhiều ảnh hưởng của thời kỳ Băng hà chỉ có đất rất cằn cỗi. Tại Lüneburger Heide đất này đã bị thoái hóa trở thành đất podsol vì trồng cỏ qua nhiều thế kỷ nên gần như không còn có thể trồng trọt được nữa. Cũng rất cằn cỗi là các vùng băng tích cũ và mới có cát bồi tụ lại. Thí dụ như Brandenburg trong lịch sử đã nổi tiếng như là "hộp cát rải của Đế quốc La Mã Thần thánh".

Giữa những vùng băng tích và vùng núi cao trung bình là một dãy đất hoàng sa màu mỡ chạy từ Tây sang Đông và được sử dụng nông nghiệp cao độ. Trong vùng núi cao trung bình ở miền trung nước Đức phần nhiều là đất không màu mỡ, phần lớn diện tích là rừng. Trong miền Nam nước Đức các vùng đất tốt đặc biệt là nằm dọc theo các sông Rhein, Main và Donau.

Tổng cộng có 53,5% diện tích nước Đức là đất nông nghiệp, 29,5% diện tích là đất rừng, 12,3% diện tích là đất ở và đất giao thông (với xu hướng ngày càng tăng) và 1,8% diện tích là nước mặt.[cần dẫn nguồn]

Hệ thực vật và hệ động vật[sửa]

Hệ thực vật[sửa]

Nước Đức nằm ở vùng khí hậu ôn hòa. Do vậy, hệ thực vật được đặc trưng bằng những rừng cây lá rộng và lá kim. Sự khác biệt về các đặc điểm địa hình, khí hậu theo từng khu vực tạo nên một hệ thực vật phong phú và đa dạng. Hệ thực vật tự nhiên từ tây sang đông đánh dấu quá trình thay đổi của khí hậu: Từ khí hậu đại dương phía tây sang khí hậu lục địa. Loại cây chủ yếu trong các rừng cây lá rộng là cây dẻ gai đỏ. Bên cạnh đó, những khu rừng ngập nước cạnh sông hồ(ngày càng ít dần) và rừng hỗn hợp các loại cây sồi, dẻ gai cũng là những loại rừng đặc trưng. Tiêu biểu cho khu vực núi Alpen và khu vực đồi núi miền trung là rừng khe núi dọc sông. Rừng trẻ được tạo thành từ các loại cây bạch dương thông trên những vùng đất cát. Dĩ nhiên, những loại cây lá rộng rất phổ biến trước đây được thay thế bằng những rừng thông.

Tập tin:Thüringer Wald im Winter.jpg
Rừng Thüringen vào mùa đông

Nếu như không có sự tác động của con người thì hệ thực vật ở Đức cũng như ở phần lớn các nước ở vùng khí hậu ôn hòa được tạo thành từ rừng, trừ những vùng đất trũng nhiễm phèn, vùng đầm lầy cũng như vùng núi cao thuộc dãy Alpen và khu vực lân cận, là vùng núi nghèo thực vật và có khí hậu lạnh ôn hòa đặc trưng.

29,5 phần trăm diện tích lãnh thổ Đức hiện nay là rừng. Như vậy, Đức là một trong những nước có nhiều rừng ở Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, các loại cây rừng được xác định do mục đích sử dụng, tỉ lệ rừng thông không phù hợp với các điều kiện tự nhiên vốn thích hợp hơn cho các loại rừng dẻ gai hỗn hợp. Bên cạnh các loại cây bản địa thì một loạt các loại cây được nhập về trồng(như keo gai) cũng chiếm một vai trò quan trọng. Phần lớn đất hoang đã được sử dụng để trồng các loại cây lương thực và cây ăn trái như đại mạch, kiều mạch, lúa mạch đen, lúa mì, cũng như khoai tây và ngô được đưa về từ châu Mỹ. Ngoài ra còn có táo và cải dầu. Ở các Thung lũng sông của các sông như Morsel, Ahr và Rhein được cải tạo để trồng nho. Bảo tồn thiên nhiên là nhiệm vụ công cộng ở Đức, phục vụ mục đích của nhà nước, được quy định trong điều 20 của hiến pháp. Mục tiêu của việc bảo vệ thiên nhiên ở Đức là giữ gìn thiên nhiên và cảnh vật tự nhiên(chương 1 Luật Bảo vệ thiên nhiên của liên bang). Đối tượng quan trọng phải bảo vệ là cảnh vật tự nhiên, thực vật và động vật. Những khu vực và đối tượng quan trọng nhất được bảo vệ hiện nay là 14 vườn quốc gia, 19 khu dự trữ sinh quyền, 95 công viên tự nhiên cũng như hàng ngàn khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo tồn cảnh vật tự nhiên và di tích thiên nhiên.

Hệ động vật[sửa]

Tập tin:Golden Eagle in flight - 5.jpg
Đại bàng đuôi trắng, giống chim dữ được bảo vệ

Phần lớn các loại động vật có vú ở Đức sống trong các khu rừng lá rộng ôn hòa. Ở rừng có các loại chồn khác nhau, hươu đỏ, hươu hoang, lợn rừng, linh miêu cáo. Hải li rái cá là những động vật đã trở nên hiếm ở các khu rừng ngập nước, song gần đây số lượng của chúng lại phần nào có tăng. Các loại động vật có vú lớn khác từng sống ở Trung Âu đã bị diệt vong: Bò rừng châu Âu (vào khoảng năm 1470), gấu nâu (1835), nai sừng tấm (ở thời Trung cổ hãy còn nhiều), ngựa rừng (thế kỷ 19), bò bizon châu Âu (thế kỷ 17/18), sói (1904). Thời gian gần đây, thỉnh thoảng có một số nai sừng tấm, sói từ Ba Lan và Séc tới cư trú. Ở các nước đó, số lượng các loài vật này đã tăng trở lại. Trong trường hợp loài sói thậm chí đã hình thành những bầy đàn mới, đầu tiên ở vùng Sorben, thời gian vừa qua cả ở phía tây, kể từ khi vào năm 2000 con sói con đầu tiên được sinh ra. Vào tháng 3 năm 2010, một đàn bò bizon châu Âu được đưa vào cư trú ở vùng núi Rothaargebirge thuộc bang Nordrhein-Westfalen. Trong trường hợp sói gấu nâu thì do một số điều phiền toái chúng đã gây ra trong thời gian qua làm cho việc quy hoạch cư trú cho chúng gặp vấn đề. Ở các vùng núi cao thuộc dãy Alpen dê núi Alpen sói mác-nốt. Ở vùng trung du như khu vực rừng Schwarzwald, khu vực Frankische Alp sơn dương.

Tập tin:Seehunde auf Duene.jpg
Hải cẩu ở Biển Bắc

Các loài bò sát quen thuộc nhất ở Đức gồm có rắn cỏ, rắn vipera berus (rắn lục), rùa orbicularis. Bên cạnh đó còn có các loài lưỡng cư như kỳ giông, ếch, cóc, cóc tía, kỳ nhông: Tất cả các loài này đã được đưa vào sách đỏ. Đại bàng đuôi trắng được xem là nguyên mẫu cho biểu tượng hình chim trên huy hiệu các vùng, miền lãnh thổ, hiện nay còn tới 500 đôi, chủ yếu sống ở vùng Mecklenburg-Vorpommern Brandenburg. Đại bàng vàng chỉ có ở vùng núi Alpen thuộc bang Bayern, loài diều hâu ở đó đã bị diệt vong, song hiện nay đã lại có một số từ Áo Thụy Sĩ tới cư trú. Các loài chim săn mồi phổ biến nhất ở Đức hiện nay là diều hâu thường cắt lưng hung. Tuy nhiên số lượng cắt lớn lại ít đi một các rõ rệt. Hơn một nửa số chim ưng milvus được sinh ra ở Đức, song do sự phát triển của sản xuất nông nghiệp nên số lượng của chúng ngày càng giảm. Đáng lưu ý là có một số lượng lớn các loài chim sống dựa vào sự hiện diện của con người: Đó là các loài bồ câu, hoét thông thường, sẻ, bạc má, sống nhờ thức ăn công nghiệp mùa đông; cũng như quạ mòng biển sống nhờ rác thải. Một điều đặc biệt là đàn chim hồng hạc ở phía bắc trong vùng rừng đầm lầy Zwillbrocker Venn. Cá hồi trước đây thường có ở các sông song gần như đã bị diệt vong ở khắp nơi do quá trình công nghiệp hóa vào thế kỷ 19, được thả nuôi trở lại ở sông Rhein vào những năm 80 của thế kỷ 20. Con cá tầm cuối cùng ở Đức bắt được vào năm 1969. Ở nhiều ao đầm được thả nuôi cá chép là loài cá mà người La Mã cổ đại đã mang đến. Hải cẩu sống ở Biển Bắc Biển Baltic, có lúc gần như bị biến mất. Vừa qua có lại được khoảng mấy nghìn con ở Biển Wadden thuộc Biển Bắc. Hải cẩu xám đã có lúc hoàn toàn không còn nữa ở Bắc Âu do bị đánh bắt, song gần đây lại có nhiều và một số đã di chuyển tới vùng bờ biển của Đức. Biển Wadden có ý nghĩa lớn là nơi dừng chân của 10 đến 12 triệu chim di trú mỗi năm. Loài cá voi quen thuộc nhất của Biển Bắc Biển Baltic cá voi họ chuột, ngoài ra còn có 7 loại cá voi khác như: cá nhà táng, cá hố kình. Bên cạnh đó còn có loài cá heo mõm ngắn. Bên cạnh các loài thú bản địa thì một số lượng đáng kể các loài thú nhập cư đã tới sinh sống. Đại diện tiêu biểu nhất là gấu mèo châu Mỹ, lửng chó, vẹt cổ hồng ngỗng Ai Cập. Các loài thú nhập cư khác là ngỗng Canada, đà điểu Nam Mỹ, tôm sông châu MỸ, ếch bò châu Mỹ, cừu núi châu Âu, cá rô gai.

Chính trị[sửa]

120px 120px
Joachim Gauck
Tổng thống từ năm 2012
Angela Merkel
Thủ tướng từ năm 2005

Đức là một nước cộng hòa liên bang, nghị viện, và dân chủ đại diện. Hệ thống chính trị Đức được vận hành theo khuôn khổ được quy định trong văn bản hiến pháp năm 1949 mang tên Grundgesetz (Luật Cơ bản). Sửa đổi theo thường lệ cần có đa số hai phần ba của cả lưỡng viện quốc hội; các nguyên tắc cơ bản của hiến pháp được biểu thị trong các điều khoản về đảm bảo nhân phẩm, cấu trúc liên bang và pháp quyền có giá trị vĩnh viễn.[86]

Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và chủ yếu được trao trách nhiệm và quyền lực tượng trưng. Ông được bầu ra bởi Bundesversammlung (hội nghị liên bang), một thể chế gồm các thành viên của Bundestag (Quốc hội) và một số lượng bình đẳng đại biểu từ các bang. Chức vụ cao thứ nhì theo thứ tự ưu tiên của Đức là Bundestagspräsident (Chủ tịch Bundestag), là người do Bundestag bầu ra và chịu trách nhiệm giám sát các phiên họp thường nhật của cơ cấu. Chức vụ cao thứ ba và người đứng đầu chính phủ là Thủ tướng, do Bundespräsident bổ nhiệm sau khi được Bundestag bầu ra.[33]

Thủ tướng Angela Merkel là người đứng đầu chính phủ từ năm 2005 và thi hành quyền lực hành pháp. Quyền lực lập pháp liên bang được trao cho quốc hội gồm có Bundestag (Viện Liên bang) và Bundesrat (Hội đồng Liên bang), tạo thành cơ cấu lập pháp. Bundestag được bầu thông qua tuyển cử trực tiếp theo đại diện tỷ lệ (thành viên hỗn hợp).[85] Thành viên của Bundesrat đại diện cho chính phủ của mười sáu bang và là thành viên của các nội các cấp bang.[33]

Kể từ năm 1949, hệ thống chính đảng nằm dưới thế chi phối của Liên minh Dân chủ Cơ Đốc giáo Đảng Dân chủ Xã hội Đức. Cho đến nay mọi thủ tướng đều là thành viên của một trong các đảng này. Tuy nhiên, Đảng Dân chủ Tự do (Đức) (có ghế trong nghị viện từ 1949 đến 2013) và Liên minh 90/Đảng Xanh (có ghế trong nghị viện từ 1983) cũng giữ vai trò quan trọng.[87]

Tỷ lệ nợ/GDP của Đức đạt đỉnh vào năm 2010 khi nó đạt 80,3% và giảm xuống kể từ đó.[88] Theo Eurostat, tổng nợ chính phủ của Đức lên đến 2.152 tỷ euro hay 71,9% GDP vào năm 2015.[89] Chính phủ liên bang đạt được thặng dư ngân sách 12,1 tỷ euro vào năm 2015.[90] Các cơ quan xếp hạng tín dụng Standard & Poor's, Moody's Fitch Ratings xếp hạng Đức ở mức cao nhất có thể là AAA với triển vọng ổn định vào năm 2016.[91]

Pháp luật[sửa]

Tập tin:Bundesarchiv B 145 Bild-F083310-0001, Karlsruhe, Bundesverfassungsgericht.jpg
Các thẩm phán của Bundesverfassungsgericht (Tòa án Hiến pháp Đức) tại Karlsruhe vào năm 1989

Đức có hệ thống pháp luật dân sự dựa theo luật La Mã với một số tham khảo luật German cổ. Bundesverfassungsgericht (Tòa án Hiến pháp Liên bang) là tòa án tối cao của Đức chịu trách nhiệm về sự vụ hiến pháp, có quyền lực phúc thẩm tư pháp.[33][92] Hệ thống tòa án tối cao của Đức gọi là Oberste Gerichtshöfe des Bundes và có tính chuyên biệt: đối với các vụ án dân sự và hình sự, tòa án kháng cáo cao nhất là Tòa án Tư pháp Liên bang, đối với các vụ án khác thì tòa án cao nhất là Tòa án Lao động Liên bang, Tòa án Xã hội Liên bang, Tòa án Tài chính Liên bang, và Tòa án Hành chính Liên bang.

Pháp luật hình sự và cá nhân được hệ thống hóa ở cấp quốc gia lần lượt trong Strafgesetzbuch Bürgerliches Gesetzbuch. Hệ thống hình phạt của Đức tìm cách cải tạo tội phạm và bảo vệ dân chúng.[93] Ngoại trừ các vụ án nhỏ do một thẩm phán chuyên nghiệp xét xử, cũng như các tội chính trị nghiêm trọng, tất cả các cáo buộc được xét cử trước tòa án hỗn hợp, tại đó các thẩm phán không chuyên (Schöffen) ngồi cạnh các thẩm phán chuyên nghiệp.[94][95] Nhiều vấn đề cơ bản trong pháp luật hành chính nằm dưới thầm quyền của cấp bang.

Các bang[sửa]

Đức gồm mười sáu bang, chúng được gọi chung là Bundesländer.[96] Mỗi bang có hiến pháp bang riêng của mình[97] và phần lớn được tự trị về vấn đề tổ chức nội bộ. Do khác biệt về kích thước và dân số, phân cấp của các bang khác nhau, đặc biệt là giữa các thành bang (Stadtstaaten) và các bang có lãnh thổ lớn (Flächenländer). Vì mục đích hành chính khu vực, có năm bang là Baden-Württemberg, Bayern, Hessen, Nordrhein-Westfalen và Sachsen có tổng cộng 22 huyện chính quyền (Regierungsbezirke). Đức được chia thành 402 huyện (Kreise) ở cấp khu tự quản; trong đó có 295 huyện nông thôn và 107 huyện đô thị.[98]

Bang Thủ phủ Diện tích (km2) Dân số[99] GDP danh nghĩa (tỷ EUR năm 2015)[100] GDP danh nghĩa bình quân (EUR năm 2015)[100] GDP danh nghĩa bình quân (USD năm 2015)[101]
Baden-Württemberg Stuttgart 35.752 10.569.100 461 42.800 47.500
Bayern München 70.549 12.519.600 550 43.100 47.900
Berlin Berlin 892 3.375.200 125 35.700 39.700
Brandenburg Potsdam 29.477 2.449.500 66 26.500 29.500
Bremen Bremen 404 654.800 32 47.600 52.900
Hamburg Hamburg 755 1.734.300 110 61.800 68.800
Hessen Wiesbaden 21.115 6.016.500 264 43.100 47.900
Mecklenburg-Vorpommern Schwerin 23,174 1,600,300 40 25.000 27.700
Niedersachsen Hanover 47.618 7.779.000 259 32.900 36.600
Nordrhein-Westfalen Düsseldorf 34.043 17.554.300 646 36.500 40.500
Rheinland-Pfalz Mainz 19.847 3.990.300 132 32.800 36.400
Saarland Saarbrücken 2.569 994.300 35 35.400 39.300
Sachsen Dresden 18.416 4.050.200 113 27.800 30.900
Sachsen-Anhalt Magdeburg 20.445 2.259.400 57 25.200 27.800
Schleswig-Holstein Kiel 15.763 2.806.500 86 31.200 34.700
Thüringen Erfurt 16.172 2.170.500 57 26.400 29.300
Đức Berlin 357.376 82.175.684 3025 37.100 41.200

Ngoại giao[sửa]

Tập tin:33rdG8Leaders.jpg
Đức tổ chức hội nghị thượng đỉnh G8 tại Heiligendamm, 6–8 tháng 6 năm 2007

Đức có mạng lưới 277 phái bộ ngoại giao tại nước ngoài[102] và duy trì quan hệ với trên 190 quốc gia.[103] , Đức là nước đóng góp lớn nhất vào ngân sách của Liên minh châu Âu (cung cấp 20%)[104] và là nước đóng góp nhiều thứ ba cho Liên Hiệp Quốc (cung cấp 8%).[105] Đức là một thành viên của NATO, OECD, G8, G20, Ngân hàng Thế giới IMF. Đức giữ vai trò có ảnh hưởng trong Liên minh châu Âu từ khi tổ chức này bắt đầu, và duy trì một liên minh mạnh với Pháp và toàn bộ các quốc gia láng giềng khác kể từ năm 1990. Đức xúc tiến hình thành một bộ máy chính trị, kinh tế và an ninh châu Âu thống nhất hơn.[106][107]

Chính sách phát triển của Đức là một khu vực độc lập trong chính sách đối ngoại. Nó do Bộ Hợp tác và Phát triển Kinh tế xây dựng, và do các tổ chức thực hiện. Chính phủ Đức nhận thức chính sách phát triển là trách nhiệm chung của cộng đồng quốc tế.[108] Đây là nhà tài trợ lớn thứ ba thế giới vào năm 2009 sau Hoa Kỳ và Pháp.[109][110]

Năm 1999, chính phủ của Thủ tướng Gerhard Schröder xác định một cơ sở mới cho chính sách đối ngoại của Đức khi tham gia trong quyết định của NATO xung quanh Chiến tranh Kosovo và lần đầu tiên phái binh sĩ Đức đi chiến đấu kể từ năm 1945.[111] Các chính phủ Đức và Hoa Kỳ là đồng minh chính trị mật thiết.[33] Liên hệ văn hóa và lợi ích kinh tế mối ràng buộc giữa hai quốc gia đưa đến kết quả là chủ nghĩa Đại Tây Dương.[112]

Quân sự[sửa]

Quân đội Đức gọi theo tiếng Đức là Bundeswehr, được tổ chức thành các nhánh Heer (lục quân và lực lượng đặc biệt KSK), Marine (hải quân), Luftwaffe (không quân), Cục Y tế chung và Cục Hậu cần chung. Theo giá trị tuyệt đối, chi tiêu quân sự của Đức cao thứ chín trên thế giới.[113] Năm 2015, chi tiêu quân sự là 32,9 tỷ euro, chiếm khoảng 1,2% GDP quốc gia, dưới mục tiêu của NATO là 2%.[114]

Bundeswehr sử dụng khoảng 178.000 thành viên phục vụ, trong đó có 9.500 tình nguyện viên.[115] Binh sĩ dự bị sẵn sàng cho quân đội và tham gia diễn tập phòng thủ và triển khai tại nước ngoài.[116] Từ năm 2001 phụ nữ có thể phục vụ trong toàn bộ các nhiệm vụ mà không bị hạn chế.[117] Khoảng 19.000 nữ binh sĩ đang tại ngũ. Theo SIPRI, Đức là nước xuất khẩu vũ khí hạng nặng lớn thứ tư trên thế giới vào năm 2014.[118]

Vào thời bình, Bundeswehr do Bộ Quốc phòng chỉ huy. Trong tình trạng phòng thủ, Thủ tướng sẽ trở thành tổng tư lệnh của Bundeswehr.[119]

Vai trò của Bundeswehr được mô tả trong Hiến pháp Đức là chỉ để phòng thủ. Sau sau một phán quyết của Tòa án Hiến pháp Liên bang vào năm 1994, thuật ngữ "phòng thủ" được xác định không chỉ bao gồm bảo vệ biên giới Đức, mà còn là đối phó với khủng hoảng và ngăn ngừa xung đột, hoặc rộng hơn là đảm bảo an ninh của Đức trên toàn thế giới. , quân đội Đức có khoảng 2.370 binh sĩ đồn trú tại nước ngoài trong vị thế thuộc các lực lượng duy trì hòa bình, trong đó có khoảng 850 binh sĩ Bundeswehr trong lực lượng ISAF do NATO lãnh đạo tại Afghanistan và Uzbekistan, 670 binh sĩ Đức tại Kosovo, và 120 binh sĩ trong UNIFIL tại Liban.[120]

Cho đến năm 2011, phục vụ quân sự là bắt buộc đối với nam giới vào tuổi 18, và các binh sĩ nghĩa vụ phục vụ trong thời hạn sáu tháng; những người phản đối vì lương tâm có thể chọn phục vụ dân sự với thời gian tương tự, hoặc sáu năm phục vụ khẩn cấp (tự nguyện) như cứu hỏa tự nguyện và Chữ thập Đỏ. Năm 2011, nghĩa vụ quân sự chính thức bị đình chỉ và bị thay thế bằng phục vụ tự nguyện.[121][122]

Nhân khẩu[sửa]

Tập tin:Population of German territories 1800 - 2000.JPG
Phát triển dân số Đức từ 1800 đến 2010[123]

Theo điều tra nhân khẩu năm 2011, dân số Đức là 80,2 triệu,[124] và tăng lên 81,5 triệu theo ước tính ngày 30 tháng 6 năm 2015[125] và lên đến ít nhất là 81,9 triệu vào ngày 31 tháng 12 năm 2015,[126] Đức là quốc gia đông dân nhất trong Liên minh châu Âu, và có dân số đông thứ nhì tại châu Âu sau Nga, và là quốc gia đông dân thứ 16 trên thế giới.[127] Tuổi thọ dự kiến khi sinh tại Đức là 80,19 năm (77,93 năm với nam giới và 82,58 năm với nữ giới).[85] Tỷ suất sinh là 1,41 trẻ em với mỗi phụ nữ (ước tính năm 2011), hay 8,33‰, một trong các mức thấp nhất trên thế giới.[85] Kể từ thập niên 1970, tỷ lệ tử vong của Đức đã vượt tỷ lệ sinh.[128] Tuy nhiên, Đức đang chứng kiến tỷ lệ sinh và tỷ lệ nhập cư gia tăng bắt đầu trong thập niên 2010,[129] đặc biệt là tăng số lượng người nhập cư có học thức.[130][131]

Bốn nhóm dân cư lớn được quy là "dân tộc thiểu số" do tổ tiên của họ sinh sống tại các khu vực tương ứng trong nhiều thế kỷ.[132] Đó là người dân tộc thiểu số Đan Mạch (khoảng 50.000) tại bang cực bắc Schleswig-Holstein.[132] Người Sorb thuộc nhóm Slav có khoảng 60.000 người, sống tại khu vực Lusatia của các bang Sachsen Brandenburg. Người Roma cư trú khắp lãnh thổ liên bang, và người Frisia sống tại duyên hải miền tây bang Schleswig-Holstein, và tại phần tây bắc của Hạ Sachsen.[132]

Có khoảng 5 triệu người có quốc tịch Đức cư trú tại nước ngoài (2012).[133] Năm 2014, có khoảng bảy triệu người trong số 81 triệu cư dân Đức không có quyền công dân Đức. Sáu mươi chín phần trăm trong số đó sống tại miền tây của liên bang và hầu hết là tại các khu vực đô thị.[134][135] Năm 2015, Đức là quốc gia có số lượng di dân quốc tế cao thứ hai thế giới, với khoảng 5% hay 12 triệu người.[136] Đức xếp hạng bảy trong EU và thứ 37 toàn cầu về tỷ lệ người nhập cư so với tổng dân số. , các dân tộc-quốc gia đông nhất là từ Thổ Nhĩ Kỳ (2.859.000), tiếp đến là Ba Lan (1.617.000), Nga (1.188.000), và Ý (764.000).[137] Từ năm 1987, có khoảng 3 triệu người dân tộc Đức, hầu hết từ các quốc gia Khối phía Đông, đã thực hiện quyền trở về của mình và di cư đến Đức.[138]

Tôn giáo[sửa]

Từ khi thống nhất vào năm 1871, khoảng 2/3 dân số Đức theo Tin Lành và 1/3 dân số theo Công giáo, cùng một cộng đồng thiểu số Do Thái giáo đáng kể. Các giáo phái khác cũng hiện diện tại Đức, song chưa từng có ý nghĩa về nhân khẩu và tác động về văn hóa như ba nhóm trên. Cộng đồng Do Thái giáo thiểu số tại Đức gần như biến mất trong Holocaust và thành phần tôn giáo của Đức cũng biến đổi dần trong các thập niên sau năm 1945, khi Tây Đức trở nên đa dạng hơn về tôn giáo do nhập cư còn Đông Đức trở thành quốc gia không tôn giáo áp đảo do chính sách của nhà nước. Tôn giáo tại Đức tiếp tục đa dạng sau khi Đức tái thống nhất vào năm 1990, về tổng thể là tính mộ đạo giảm đi nhiều trên toàn quốc song tín đồ Phúc Âm Hồi giáo lại tăng lên.[139]

Theo điều tra nhân khẩu Đức năm 2011, Cơ Đốc giáo là tôn giáo lớn nhất tại Đức khi 66,8% tổng dân số tuyên bố là tín đồ của nó.[140] So với toàn thể dân số, 31,7% tuyên bố họ là tín đồ Tin Lành, và 31,2% tuyên bố họ là tín đồ Công giáo La Mã.[141] Tín đồ Chính thống giáo chiếm 1,3%, còn tín đồ Do Thái giáo chiếm 0,1%. Các tôn giáo khác chiếm 2,7%. Năm 2014, Giáo hội Công giáo có 23,9 triệu thành viên (29,5% dân số)[142] và Giáo hội Phúc Âm có 22,6 triệu thành viên (27,9% dân số).[143] Cả hai giáo hội lớn đều để mất số lượng tín đồ đáng kể trong những năm gần đây. Về phương diện địa lý, tín đồ Tin Lành tập trung tại miền bắc, miền trung và miền đông của quốc gia. Họ hầu hết là thành viên Giáo hội Phúc Âm Đức- bao gồm Giáo hội Luther Thần học Cải cách. Tín đồ Công giáo La Mã tập trung tại miền nam và miền tây.

Năm 2011, 33% người Đức không phải thành viên của các tổ chức tôn giáo được công nhận chính thức với tình trạng đặc biệt.[141] Nhóm Không tôn giáo tại Đức mạnh nhất là tại Đông Đức và các khu vực đại đô thị.[144][145][146]

Hồi giáo là tôn giáo lớn thứ hai tại Đức, theo điều tra nhân khẩu năm 2011 thì 1,9% người Đức tự nhận là người Hồi giáo.[141] Các ước tính gần đây hơn cho thấy rằng có khoảng 2,1-4,3 triệu người Hồi giáo cư trú tại Đức.[147] Hầu hết người Hồi giáo thuộc phái Sunni Alevi từ Thổ Nhĩ Kỳ, song có lượng nhỏ tín đồ thuộc các phái khác như Shia.[148] Các tôn giáo khác chiếm dưới 1% dân số Đức[141] Phật giáo với 250.000 tín đồ (khoảng 0,3%) và Ấn Độ giáo với khoảng 100.000 tín đồ (0,1%). Các cộng đồng tôn giáo còn lại tại Đức có ít hơn 50.000 tín đồ mỗi tôn giáo.[149]

Ngôn ngữ[sửa]

Tập tin:Continental West Germanic languages.png
Các phương ngữ tiếng Đức

Tiếng Đức là ngôn ngữ chính thức và chiếm ưu thế tại Đức.[150] Đây là một trong 24 ngôn ngữ chính thức và công việc của Liên minh châu Âu,[151] và là một trong ba ngôn ngữ công việc của Ủy ban châu Âu. Tiếng Đức là ngôn ngữ thứ nhất được nói phổ biến nhất trong Liên minh châu Âu, với khoảng 100 triệu người bản ngữ.[152]

Các ngôn ngữ thiểu số bản địa được công nhận là tiếng Đan mạch, tiếng Hạ Đức, tiếng Sorbia, tiếng Roma, và tiếng Frisia; chúng được bảo vệ chính thức theo Hiến chương châu Âu về các ngôn ngữ khu vực và thiểu số. Các ngôn ngữ nhập cư được sử dụng phổ biến nhất là tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Kurd, tiếng Ba Lan, các ngôn ngữ Balkan, và tiếng Nga. Người Đức có đặc trưng là đa ngôn ngữ: 67% công dân Đức tuyên bố có thể giao thiệp bằng ít nhất một ngoại ngữ và 27% bằng ít nhất hai ngoại ngữ.[150]

Tiếng Đức tiêu chuẩn thuộc hệ Tây German, có liên hệ mật thiết và được phân loại cùng nhóm với tiếng Hạ Đức, tiếng Hà Lan, tiếng Frisia và tiếng Anh. Trong phạm vi nhỏ hơn, nó cũng có liên hệ với các hệ ngôn ngữ Đông German (đã tuyệt diệt) và Bắc German. Hầu hết từ vựng trong tiếng Đức bắt nguồn từ nhánh German của ngữ hệ Ấn-Âu.[153] Thiểu số đáng kể các từ có nguồn gốc từ tiếng Latinh và Hy Lạp, cùng một lượng nhỏ hơn từ tiếng Pháp và gần đây nhất là tiếng Anh. Tiếng Đức sử dụng bảng chữ cái Latinh để viết. Các phương ngữ tiếng Đức bắt nguồn từ dạng địa phương truyền thống của các bộ lạc German, và khác biệt với các dạng tiêu chuẩn của tiếng Đức qua từ vựng, âm vị, và cú pháp.[154]

Giáo dục[sửa]

Tập tin:Heidelberg Universitätsbibliothek 2003.jpg
Đại học Heidelberg được thành lập vào năm 1386 là một đại học xuất sắc của Đức is a German university of excellence.

Trách nhiệm giám sát giáo dục tại Đức chủ yếu được tổ chức trong mỗi bang. Giáo dục mầm non tùy chọn được cung cấp cho toàn bộ trẻ từ ba đến sáu tuổi, sau cấp trường này trẻ tham gia giáo dục nghĩa vụ trong ít nhất chín năm. Giáo dục tiểu học thường kéo dài từ bốn đến sáu năm.[155] Giáo dục trung học gồm ba loại hình trường học truyền thống, tập trung vào các cấp độ học thuật: Các trường lý thuyết (Gymnasium) dành cho các trẻ tài năng nhất và chuẩn bị cho học sinh học tập tại bậc đại học; các trường thực tế (Realschule) dành cho học sinh trung bình và kéo dài trong sáu năm, và các trường học phổ thông (Hauptschule) chuẩn bị cho học sinh theo học giáo dục nghề.[156] Các trường toàn diện (Gesamtschule) hợp nhất toàn bộ các loại hình giáo dục trung học.

Một hệ thống học nghề gọi là Duale Ausbildung có kết quả là có chuyên môn lành nghề, hầu như tương đương với một bằng cấp học thuật. Nó cho phép các học sinh khi tham gia đào tạo nghề được học tại một công ty cũng như tại một trường thương mại quốc lập.[155] Mô hình này được đánh giá cao và được mô phỏng trên khắp thế giới.[157]

Hầu hết các đại học tại Đức là cơ sở công lập, và sinh viên có truyền thống không phải trả học phí.[158] Điều kiện chung cho bậc đại học là kỳ thi Abitur. Tuy nhiên, có một số ngoại lệ thùy theo mỗi bang, trường học và đối tượng. Giáo dục học thuật miễn phí không hạn chế đối với sinh viên quốc tế và lưu học tại Đức ngày càng phổ biến.[159] Theo một báo cáo của OECD trong năm 2014, Đức là quốc gia đứng thứ ba thế giới về địa điểm học tập quốc tế.[160]

Đức có truyền thống lâu dài về giáo dục bậc đại học, phản ánh vị thế là một nền kinh tế hiện đại trên toàn cầu. Trong số đại học được thành lập tại Đức, có một số trường ở vào hàng lâu năm nhất thế giới, Đại học Heidelberg (thành lập 1386) là cổ nhất tại Đức.[161] Tiếp đến là Đại học Leipzig (1409), Đại học Rostock (1419) và Đại học Greifswald (1456).[162] Đại học Berlin do nhà cải cách giáo dục Wilhelm von Humboldt thành lập vào năm 1810, trở thành hình mẫu học thuật cho nhiều đại học châu Âu và phương Tây. Tại nước Đức đương đại, phát triển được 11 đại học ưu tú: Đại học Humboldt Berlin, Đại học Bremen, Đại học Köln, Đại học Công nghệ Dresden, Đại học Tübingen, Đại học Công nghệ Rhein-Westfalen Aachen, Đại học Tự do Berlin, Đại học Heidelberg, Đại học Konstanz, Đại học Ludwig Maximilian München, và Đại học Công nghệ München.[163]

Y tế[sửa]

Hệ thống nhà tế bần của Đức mang tên spitals có từ thời Trung Cổ, và ngày nay Đức có hệ thống chăm sóc y tế phổ quát lâu năm nhất thế giới, từ pháp luật xã hội của Bismarck trong thập niên 1880,[164] Kể từ thập niên 1880, các cải cách và điều khoản đảm bảo một hệ thống chăm sóc y tế cân bằng. Hiện nay cư dân được bảo hộ thông qua một kế hoạch bảo hiểm y tế theo quy chế, có tiêu chuẩn cho phép một số nhóm lựa chọn một hợp đồng bảo hiểm y tế tư nhân. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, hệ thống chăm sóc y tế của Đức có 77% là do chính phủ tài trợ và 23% là do cá nhân chi trả .[165] Năm 2005, Đức dành 11% GDP của mình cho chăm sóc y tế. Đức xếp hạng 20 trên thế giới về tuổi thọ dự tính với con số 77 năm cho nam giới và 82 năm cho nữ giới, và có tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh rất thấp (4 trên 1.000 ca sinh).[165]

, nguyên nhân tử vong chính là bệnh tim mạch với 41%, tiếp đến là u ác tính với 26%.[166] , khoảng 82.000 người Đức bị nhiễm HIV/AIDS và 26.000 chết vì dịch bệnh này (lũy tích, từ 1982).[167] Theo một khảo sát vào năm 2005, 27% người Đức trưởng thành hút thuốc lá.[167] Béo phì tại Đức ngày càng được cho là một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Một nghiên cứu vào năm 2007 cho thấy Đức có số người thừa cân cao nhất tại châu Âu.[168][169]

Kinh tế[sửa]

Tập tin:2015 Mercedes-Benz S63 AMG Coupé, front left (US).jpg
Đức duy trì một ngành công nghiệp ô tô quy mô lớn, và là nước xuất khẩu hàng hóa lớn thứ ba trên thế giới.[170]

Đức có nền kinh tế thị trường xã hội, với lực lượng lao động trình độ cao, vốn tư bản lớn, mức độ tham nhũng thấp,[171] và mức độ sáng tạo cao.[172] Đây là nước xuất khẩu hàng hóa lớn thứ ba trên thế giới,[170] và có nền kinh tế quốc dân lớn nhất tại châu Âu, đứng thứ tư trên thế giới theo GDP danh nghĩa[173] và thứ năm theo sức mua tương đương.[174]

Khu vực dịch vụ đóng góp khoảng 71% cho tổng GDP (bao gồm công nghệ thông tin), công nghiệp 28%, và nông nghiệp 1%.[85] Tỷ lệ thất nghiệp do Eurostat công bố đạt 4,7% trong tháng 1 năm 2015, là mức thấp nhất trong toàn bộ 28 quốc gia thành viên Liên minh châu Âu.[175] Với mức 7,1%, Đức cũng có tỷ lệ thất nghiệp thanh niên thấp nhất trong toàn bộ 28 quốc gia thành viên EU.[175] Theo OECD, Đức nằm trong các quốc gia có mức năng suất lao động cao nhất trên thế giới.[176]

Đức nằm trong Thị trường chung châu Âu, tương ứng với hơn 500 triệu người tiêu dùng. Một số chính sách thương nghiệp nội bộ được xác định theo các thỏa thuận giữa các thành viên EU và theo pháp luật EU. Đức cho lưu thông đồng tiền chung châu Âu Euro vào năm 2002.[177][178] Đức nằm trong khu vực đồng Euro đại diện cho khoảng 338 triệu công dân. Chính sách tiền tệ được thiết lập bởi Ngân hàng Trung ương Châu Âu có trụ sở tại Frankfurt, trung tâm tài chính của châu Âu lục địa.

Đức là quê hương của ô tô hiện đại, ngành công nghiệp ô tô tại Đức được nhìn nhận là nằm vào hàng cạnh tranh và cải tiến nhất trên thế giới,[179] và đứng thứ tư về sản lượng.[180] Mười mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Đức là xe cộ, máy móc, hóa chất, sản phẩm điện tử, thiết bị điện, dược phẩm, thiết bị vận chuyển, kim loại thường, sản phẩm thực phẩm, cao su và chất dẻo (2015).[181]

Công ty[sửa]

Trong số 500 công ty niêm yết thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới theo doanh thu vào năm 2014, Fortune Global 500, có 28 công ty có trụ sở tại Đức. 30 công ty có căn cứ tại Đức được liệt vào trong DAX, chỉ số thị trường chứng khoán Đức. Các nhãn hãng nổi tiếng quốc tế gồm có Mercedes-Benz, BMW, SAP, Volkswagen, Audi, Siemens, Allianz, Adidas, Porsche, và DHL.[182]

Đức có một bộ phận lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyên ngành, gọi là mô hình Mittelstand. Khoảng 1.000 trong số đó là các công ty hàng đầu thị trường toàn cầu trong phân khúc của chúng và được gán cho là các nhà vô địch ẩn hình.[183] Berlin đã phát triển thành một trung tâm thịnh vượng, toàn cầu cho các công ty khởi nghiệp và trở thành một địa điểm hàng đầu đối với các hãng tài trợ đầu tư mạo hiểm trong Liên minh châu Âu.[184]

Danh sách liệt kê các công ty lớn nhất của Đức theo doanh thu vào năm 2014:[185]

Tập tin:BlueEurozone.svg
Đức nằm trong Khu vực đồng euro (xanh đậm), và trong Thị trường chung châu Âu.
Hạng Tên Trụ sở Doanh thu
(tỷ euro)
Lợi nhuận
(tỉ euro)
Nhân viên
(thế giới)
1. Volkswagen Wolfsburg 269 15 593.000
2. Daimler Stuttgart 172 9 280.000
3. E.ON Essen 151 −4 59.000
4. Allianz München 137 8 147.000
5. BMW München 107 8 116.000
6. Siemens Berlin, München 74 6 360.000
7. BASF Ludwigshafen 99 7 113.000
8. Metro Düsseldorf 59 1 228.000
9. Deutsche Telekom Bonn 83 4 228.000
10. Munich Re München 82 4 43.000

Giao thông[sửa]

Tập tin:ICE3 in Cologne.jpg
Tàu ICE 3 tại Ga đường sắt Köln

Do có vị trí tại trung tâm của châu Âu, Đức là trung tâm giao thông của lục địa.[186] Giống như các quốc gia láng giềng tại Tây Âu, mạng lưới đường bộ của Đức nằm vào hàng dày đặc nhất thế giới.[187] Hệ thống xa lộ (Autobahn) được xếp hạng ba thế giới về chiều dài và được biết đến do không hạn chế tốc độ chung.[188]

Đức thiết lập một hệ thống đường sắt cao tốc đa tâm. Mạng lưới InterCityExpress hay ICE của Công ty Deutsche Bahn phục vụ các thành phố lớn của Đức cũng như điểm đến tại các quốc gia láng giềng với tốc độ lên đến .[189] Đường sắt Đức được chính phủ trợ cấp, với 17 tỷ euro vào năm 2014.[190]

Các sân bay lớn nhất tại Đức là Sân bay Frankfurt Sân bay München, cả hai đều là trung tâm của Lufthansa, trong khi Air Berlin có trung tâm tại Berlin Tegel Düsseldorf. Các sân bay lớn khác bao gồm Berlin Schönefeld, Hamburg, Köln/Bonn Leipzig/Halle.[191] Cảng Hamburg là một trong hai mươi cảng container lớn nhất thế giới.[192]

Năng lượng và hạ tầng[sửa]

, Đức là nước tiêu thụ năng lượng lớn thứ sáu thế giới,[193] và 60% năng lượng sơ cấp được nhập khẩu.[194] Năm 2014, các nguồn năng lượng là: dầu (35,0%); than đá, trong đó có than non (24,6%); khí đốt tự nhiên (20,5%); hạt nhân (8,1%); thủy điện và nguồn tái tạo (11,1%).[195] Chính phủ và ngành năng lượng hạt nhân chấp thuận ngưng dần toàn bộ các nhà máy điện hạt nhân đến năm 2021.[196] Họ cũng tiến hành các hoạt động bảo tồn năng lượng, công nghệ xanh, giảm phát thải,[197] và đặt mục tiêu vào năm 2020 các nguồn tái tạo sẽ đáp ứng 40% nhu cầu điện năng của quốc gia. Đức cam kết Nghị định thư Kyoto và một vài hiệp ước khác đề xướng đa dạng sinh học, tiêu chuẩn phát thải thấp, quản lý nước, và thương mại hóa năng lượng tái tạo.[198] Tỷ lệ tái chế tại hộ gia đình của Đức nằm vào hàng cao nhất thế giới, vào khoảng 65% (2015).[199] Tuy thế, tổng phát thải khí nhà kính của Đức cao nhất trong EU .[200] Chuyển đổi năng lượng Đức (Energiewende) là bước đi được công nhận để hướng đến một nền kinh tế bền vững bằng các biện pháp hiệu suất năng lượng và năng lượng tái tạo.[201]

Khoa học và công nghệ[sửa]

Tập tin:Einstein1921 by F Schmutzer 3.jpg
Nhà vật lý học Albert Einstein. Có hơn 100 người Đức từng được trao Giải Nobel.

Đức là nước hàng đầu toàn cầu về khoa học và kỹ thuật do có thành tựu đáng kể trong các lĩnh vực này. Các nỗ lực nghiên cứu và phát triển tạo thành một bộ phận không thể thiếu của kinh tế Đức.[202] Hơn 100 người Đức từng được trao Giải Nobel.[203] Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp ngành khoa học và công nghệ của Đức cao thứ nhì thế giới (31%) sau Hàn Quốc (32%) vào năm 2012.[204] Đầu thế kỷ 20, người Đức giành được nhiều giải Nobel hơn bất kỳ quốc gia nào khác, đặc biệt là trong khoa học (vật lý, hóa học, y học).[205][206]

Các nhà vật lý học Đức nổi tiếng trước thế kỷ 20 gồm có Hermann von Helmholtz, Joseph von Fraunhofer Gabriel Daniel Fahrenheit, cùng những người khác. Albert Einstein đưa thuyết tương đối cho ánh sáng và lực hấp dẫn lần lượt vào năm 1905 và năm 1915. Cùng với Max Planck, ông có công trong khai phá cơ học lượng tử , lĩnh vực mà Werner Heisenberg Max Born sau đó có các đóng góp lớn.[207] Wilhelm Röntgen phát hiện tia X.[208] Otto Hahn là một người tiên phong trong lĩnh vực hóa học phóng xạ và phát hiện phân rã nguyên tử , trong khi Ferdinand Cohn Robert Koch là những người sáng lập vi sinh học. Một số nhà toán học sinh tại Đức, bao gồm Carl Friedrich Gauss, David Hilbert, Bernhard Riemann, Gottfried Leibniz, Karl Weierstrass, Hermann Weyl Felix Klein.

Tập tin:Views in the Main Control Room (12052189474).jpg
Trung tâm vận hành không gian châu Âu (ESOC) tại Darmstadt

Đức là quê hương của nhiều nhà phát minh và kỹ thuật nổi tiếng, bao gồm Hans Geiger sáng tạo bộ đếm Geiger; và Konrad Zuse tạo ra máy tính kỹ thuật số tự động hoàn toàn đầu tiên.[209] Các nhà phát minh, kỹ sư và nhà công nghiệp như Ferdinand von Zeppelin,[210] Otto Lilienthal, Gottlieb Daimler, Rudolf Diesel, Hugo Junkers Karl Benz giúp định hình công nghệ vận chuyển ô tô và hàng không hiện đại. Các viện của Đức như Trung tâm Vũ trụ Đức (DLR) có đóng góp lớn nhất cho ESA. Kỹ sư vũ trụ Wernher von Braun phát triển tên lửa không gian đầu tiên tại Peenemünde và về sau là một thành viên nổi bật của NASA và phát triển tên lửa Mặt Trăng Saturn V. Công trình của Heinrich Rudolf Hertz trong lĩnh vực bức xạ điện từ là mấu chốt để phát triển viễn thông hiện đại.[211]

Các tổ chức nghiên cứu tại Đức gồm có Hiệp hội Max Planck, Hiệp hội Helmholtz và Hiệp hội Fraunhofer. Lò phản ứng Wendelstein 7-X tại Greifswald có các cơ sở hạ tầng để nghiên cứu năng lượng hợp hạch.[212] Giải Gottfried Wilhelm Leibniz được trao cho mười nhà khoa học và viện sĩ hàng năm. Với tối đa 2,5 triệu euro cho mỗi giải thưởng đây là một trong các giải nghiên cứu tặng thưởng cao nhất thế giới.[213]

Du lịch[sửa]

Đức là quốc gia được viếng thăm nhiều thứ bảy trên thế giới (2011),[214] với tổng cộng 407 triệu khách nghỉ qua đêm vào năm 2012.[215] Con số này bao gồm 68,83 triệu đêm của du khách ngoại quốc. Năm 2012, có trên 30,4 triệu du khách quốc tế đến Đức. Berlin trở thành địa điểm thành phố được viếng thăm nhiều thứ ba tại châu Âu.[216] Ngoài ra, trên 30% người Đức giành kỳ nghỉ của họ ở trong nước, nhiều nhất là đi Mecklenburg-Vorpommern. Du lịch và lữ hành nội địa và quốc tế kết hợp đóng góp trực tiếp trên 43,2 tỷ euro cho GDP của Đức. Bao gồm các tác động gián tiếp và cảm ứng, ngành công nghiệp này đóng góp 4,5% GDP của Đức và cung cấp hai triệu việc làm (4,8% tổng số việc làm).[217]

Đức nổi tiếng với các tuyến du lịch đa dạng, như Con đường lãng mạn, Tuyến đường rượu vang, Con đường Thành lũy, Con đường hai hàng cây. Con đường nhà khung gỗ Đức (Deutsche Fachwerkstraße) liên kết các thị trấn với các mẫu kiến trúc như vậy.[218][219] Đức có 41 di sản thế giới UNESCO,[220] trong đó có các vùng lõi đô thị cổ của Regensburg, Bamberg, Lübeck, Quedlinburg, Weimar, Stralsund Wismar. Các cảnh quan được viếng thăm nhiều nhất tại Đức có thể kể đến như Lâu đài Neuschwanstein, Nhà thờ chính tòa Köln, Bundestag Berlin, Hofbräu München, Lâu đài Heidelberg, Zwinger Dresden, Tháp truyền hình Berlin Nhà thờ chính tòa Aachen. Europa-Park gần Freiburg là khu nghỉ dưỡng công viên chủ đề đông khách thứ nhì tại châu Âu.[221]

Văn hóa[sửa]

Tập tin:ChristmasMarketJena.jpg
Một chợ Giáng sinh (Weihnachtsmarkt) tại Đức

Văn hóa tại các bang của Đức được định hình từ các trào lưu tri thức và đại chúng lớn tại châu Âu, cả tôn giáo và thế tục. Nước Đức trong lịch sử được gọi là Das Land der Dichter und Denker ("vùng đất của các nhà thơ và các nhà tư tưởng"),[222] do vai trò lớn của các nhà văn và triết gia Đức trong quá trình phát triển của tư tưởng phương Tây.[223]

Đức nổi tiếng với các truyền thống lễ hội dân gian như Oktoberfest và phong tục Giáng sinh- gồm các vòng hoa Mùa Vọng, hoạt cảnh Chúa Giáng sinh, cây Giáng sinh, bánh Stollen, và các nghi thức khác.[224][225] UNESCO ghi danh 41 di sản tại Đức vào danh sách di sản thế giới.[226] Có một số ngày nghỉ lễ công cộng tại Đức, do mỗi bang xác định; ngày 3 tháng 19 là ngày quốc khánh của Đức từ năm 1990, được kỷ niệm với tên gọi Tag der Deutschen Einheit (Ngày thống nhất nước Đức).[227]

Trong thế kỷ 21, Berlin nổi lên thành một trung tâm sáng tạo quốc tế lớn.[228] Theo Anholt–GfK Nation Brands Index, vào năm 2014 Đức là quốc gia được tôn trọng nhất trong 50 quốc gia khảo sát (trên Hoa Kỳ, Anh và Pháp).[229][230][231] Một cuộc thăm dò quan điểm toàn cầu của BBC cho thấy rằng Đức được công nhận là có ảnh hưởng tích cực nhất trên thế giới trong năm 2013 và 2014.[232][233]

Ân nhạc[sửa]

Tập tin:Beethoven.jpg
Nhà soạn nhạc Ludwig van Beethoven (1770–1827)

Âm nhạc cổ điển Đức có các tác phẩm của một số nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất thế giới. Dieterich Buxtehude sáng tác ôratô cho organ, có ảnh hưởng đến tác phẩm sau này của Johann Sebastian Bach Georg Friedrich Händel; họ là các nhà soạn nhạc có uy thế trong thời kỳ Baroque. Trong thời gian làm nhạc công violon và giáo viên tại nhà thờ lớn Salzburg, nhà soạn nhạc Leopold Mozart sinh tại Augsburg đã dìu dắt một trong các nhạc sĩ được chú ý nhất mọi thời đại: Wolfgang Amadeus Mozart. Ludwig van Beethoven là một nhân vật cốt yếu trong chuyển đổi giữa các thời kỳ cổ điển và lãng mạn. Carl Maria von Weber Felix Mendelssohn là những người quan trọng vào thời kỳ đầu lãng mạn. Robert Schumann Johannes Brahms sáng tác bằng cách diễn đạt lãng mạn. Richard Wagner nổi tiếng với các tác phẩm opera của mình. Richard Strauss là một nhà soạn nhạc hàng đầu vào cuối thời kỳ lãng mạn và đầu thời kỳ hiện đại. Karlheinz Stockhausen Hans Zimmer là các nhà soạn nhạc quan trọng trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21.[234]

Đức là thị trường âm nhạc lớn thứ nhì tại châu Âu, và lớn thứ tư trên thế giới.[235] Âm nhạc đại chúng Đức trong thế kỷ 20 và 21 bao gồm các phong trào Neue Deutsche Welle, disco (Boney M., Modern Talking, Bad Boys Blue), pop, Ostrock, Heavy metal/rock (Rammstein, Scorpions, Accept, Helloween), punk, pop rock (Herbert Grönemeyer), indie và schlager pop. Âm nhạc điện tử Đức giành được ảnh hưởng toàn cầu, với Kraftwerk Tangerine Dream đi tiên phong trong thể loại này.[236] Các DJ và nghệ sĩ sân khấu techno house music của Đức trở nên nổi tiếng.[237]

Mỹ thuật[sửa]

Các họa sĩ Đức có ảnh hưởng đến mỹ thuật phương Tây, Albrecht Dürer, Hans Holbein Trẻ, Matthias Grünewald Lucas Cranach Già là các họa sĩ quan trọng của Đức trong Thời kỳ Phục hưng, Peter Paul Rubens Johann Baptist Zimmermann của thời kỳ Baroque, Caspar David Friedrich Carl Spitzweg của thời kỳ lãng mạn, Max Liebermann của thời kỳ ấn tượng Max Ernst của thời kỳ siêu thực.[238] Các nhà điêu khắc Đức như Otto Schmidt-Hofer, Franz Iffland, và Julius Schmidt-Felling có đóng góp quan trọng cho lịch sử mỹ thuật Đức vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.[239][240]

Một số nhóm mỹ thuật Đức được thành lập trong thế kỷ 20, như Nhóm Tháng 11 hay Die Brücke (Cây cầu) và Der Blaue Reiter (Kỵ sĩ Xanh), bởi Wassily Kandinsky sinh tại Nga, tác động đến sự phát triển của chủ nghĩa biểu hiện tại München và Berlin. Tân Khách quan nổi lên với vị thế một phản phong cách với nó trong thời Cộng hòa Weimar. Xu hướng mỹ thuật sau Chiến tranh thế giới thứ hai tại Đức đại khái có thể chia thành chủ nghĩa tân biểu hiện, nghệ thuật trình diễn và nghệ thuật quan niệm. Các nghệ sĩ tân biểu hiện nổi bật đặc biệt gồm có Georg Baselitz, Anselm Kiefer, Jörg Immendorff, A. R. Penck, Markus Lüpertz, Peter Robert Keil và Rainer Fetting. Các họa sĩ trường phái quan niệm hàng đầu của Đức gồm Bernd và Hilla Becher, Hanne Darboven, Hans-Peter Feldmann, Hans Haacke, Joseph Beuys, HA Schult, Aris Kalaizis, Neo Rauch và Andreas Gursky. Các triển lãm và lễ hội mỹ thuật lớn tại Đức là documenta, Berlin Biennale, transmediale Art Cologne.[238]

Kiến trúc[sửa]

Phần đóng góp kiến trúc từ Đức bao gồm các phong cách Karoling và Otto, tiền thân của Kiến trúc Roman. Gothic Gạch là một phong cách Trung Cổ đặc biệt được tiến triển tại Đức. Trong kiến trúc Phục Hưng Baroque, các yếu tố khu vực và điển hình của Đức tiến triển (như Phục hưng Weser và Baroque Dresden ). Trong số nhiều bậc thầy Baroque nổi danh có Pöppelmann, Balthasar Neumann, Knobelsdorff và anh em nhà Asam. Trường phái Wessobrunner gây ảnh hưởng quyết định lên, và đương thời thậm chí là chi phối, nghệ thuật trát vữa stucco tại miền nam Đức trong thế kỷ 18. Con đường Baroque Thượng Schwaben là một tuyến du lịch có chủ đề baroque, nêu bật đóng góp của các nghệ sĩ và thợ thủ công như Johann Michael Feuchtmayer, một trong các thành viên của gia tộc Feuchtmayer và anh em Johann Baptist Zimmermann và Dominikus Zimmermann.[241] Kiến trúc bản xứ tại Đức thường được nhận biết thông qua truyền thống khung gỗ (Fachwerk) và khác biệt giữa các khu vực, và trong các phong cách mộc.[242][243]

Khi công nghiệp hóa lan khắp châu Âu, chủ nghĩa cổ điển và một phong cách đặc biệt của chủ nghĩa lịch sử phát triển tại Đức, đôi khi được gọi là phong cách Gründerzeit, do bùng nổ kinh tế vào cuối thế kỷ 19. Các phong cách lịch sử khu vực gồm có Trường phái Hannover, Phong cách Nuremberg Trường phái Semper-Nicolai của Dresden. Trong số các tòa nhà nổi tiếng nhất của Đức, Lâu đài Neuschwanstein tiêu biểu cho Phục hưng Roma. Các tiểu phong cách nổi bật tiến hóa từ thế kỷ 18 là kiến trúc suối khoáng và nghỉ dưỡng bờ biển. Các nghệ sĩ, nhà văn và nhà trưng bày của Đức như Siegfried Bing, Georg Hirth và Bruno Möhring cũng có đóng góp cho sự phát triển của Art Nouveau khi bước sang thế kỷ 20, được gọi là Jugendstil trong tiếng Đức.[244]

Kiến trúc biểu hiện phát triển trong thập niên 1910 tại Đức và ảnh hưởng đến Art Deco và các phong cách hiện đại khác, có các kiến trúc sư nổi bật như Erich Mendelsohn. Đức đặc biệt quan trọng vào đầu phong trào hiện đại: đây là quê hương của Werkbund do Hermann Muthesius khởi xướng (Tân Khách quan), và của phong trào Bauhaus do Walter Gropius thành lập. Do đó, Đức thường được nhận định là cái nôi của kiến trúc và thiết kế hiện đại. Ludwig Mies van der Rohe trở thành một trong các kiến trúc sư nổi tiếng nhất thế giới vào nửa sau thế kỷ 20. Ông thai nghén tòa nhà chọc trời có kính bao phủ bề ngoài.[245] Các kiến trúc sư và văn phòng đương đại nổi tiếng gồm có Hans Kollhoff, Sergei Tchoban, KK Architekten, Helmut Jahn, Behnisch, GMP, Ole Scheeren, J. Mayer H., OM Ungers, Gottfried Böhm Frei Otto - được trao giải Pritzker.[246]

Văn học và triết học[sửa]

Tập tin:Grimm.jpg
Anh em nhà Grimm sưu tập và phát hành các truyện dân gian của Đức.

Văn học Đức có thể truy nguyên đến thời kỳ Trung Cổ và tác phẩm của các nhà văn như Walther von der Vogelweide Wolfram von Eschenbach. Các tác gia Đức nổi tiếng gồm Johann Wolfgang von Goethe, Friedrich Schiller, Gotthold Ephraim Lessing Theodor Fontane. Bộ sưu tập các truyện dân gian do Anh em nhà Grimm xuất bản đã truyền bá văn học dân gian Đức trên cấp độ quốc tế.[247] Anh em nhà Grimm cũng thu thập và hệ thống hóa các biến thể khu vực của tiếng Đức; tác phẩm Deutsches Wörterbuch (từ điển tiếng Đức) của họ được bắt đầu vào năm 1838 và các tập đầu tiên phát hành vào năm 1854.[248]

Các tác gia có ảnh hưởng trong thế kỷ 20 gồm Gerhart Hauptmann, Thomas Mann, Hermann Hesse, Heinrich Böll Günter Grass.[249] Thị trường sách của Đức lớn thứ ba trên thế giới, sau Hoa Kỳ và Trung Quốc (2014).[250] Hội chợ Sách Frankfurt có vị thế quan trọng nhất trên thế giới về giao dịch và mua bán quy mô quốc tế, có truyền thống kéo dài hơn 500 năm.[251] Hội chợ Sách Leipzig cũng duy trì một vị thế quan trọng tại châu Âu.[252]

Triết học Đức có tầm quan trọng lịch sử: các đóng góp của Gottfried Leibniz cho chủ nghĩa duy lý; triết học khai sáng của Immanuel Kant; chủ nghĩa duy tâm Đức cổ điển được lập ra bởi Johann Gottlieb Fichte, Georg Wilhelm Friedrich Hegel Friedrich Wilhelm Joseph Schelling; tác phẩm của Arthur Schopenhauer về chủ nghĩa bi quan trừu tượng; Karl Marx Friedrich Engels xây dựng lý thuyết cộng sản; Friedrich Nietzsche phát triển chủ nghĩa quan điểm; Gottlob Frege đóng góp cho buổi đầu của triết học phân tích; Martin Heidegger có các tác phẩm về sự tồn tại; trường phái Frankfurt phát triển nhờ công Max Horkheimer, Theodor Adorno, Herbert Marcuse Jürgen Habermas.

Truyền thông[sửa]

Các công ty truyền thông hoạt động quốc tế lớn nhất tại Đức là Bertelsmann, Axel Springer SE ProSiebenSat.1 Media. Thông tấn xã Đức DPA cũng đáng chú ý. Thị trường truyền hình của Đức lớn nhất tại châu Âu, với khoảng 38 triệu hộ xem TV.[253] Khoảng 90% số hộ gia đình Đức có truyền hình cáp và vệ tinh (2012), đa dạng về các kênh truyền hình đại chúng miễn phí và thương mại.[254] Có hơn 500 đài phát thanh công cộng và tư nhân tại Đức, trong đó Deutsche Welle là cơ quan phát thanh và truyền hình chủ yếu của Đức phát bằng các ngoại ngữ.[255] Mạng lưới phát thanh quốc gia của Đức là Deutschlandradio, trong khi các đài ARD bao phủ phục vụ địa phương.

Nhiều báo chí bán chạy nhất châu Âu được xuất bản tại Đức. Các báo (và phiên bản internet) có lượng lưu hành lớn nhất là Bild, Die Zeit, Süddeutsche Zeitung, Frankfurter Allgemeine Zeitung Die Welt, các tạp chí lớn nhất là Der Spiegel, Stern Focus.[256]

Thị trường video game của Đức nằm vào hàng lớn nhất thế giới.[257] Hội chợ Gamescom tại Köln là hội nghị game dẫn đầu thế giới.[258] Các loạt game phổ biến đến từ Đức gồm có Turrican, Anno, The Settlers, Gothic, SpellForce, FIFA Manager, Far Cry Crysis. Các nhà phát triển và phát hành game liên quan là Blue Byte, Crytek, Deep Silver, Kalypso Media, Piranha Bytes, Yager Development, và một số công ty game mạng xã hội lớn nhất thế giới như Bigpoint, Gameforge, Goodgame và Wooga.[259]

Điện ảnh[sửa]

Điện ảnh Đức có đóng góp lớn về kỹ thuật và nghệ thuật cho thế giới. Các tác phẩm đầu tiên của Anh em Skladanowsky được chiếu cho khán giả vào năm 1895. Xưởng phim Babelsberg nổi tiếng tại Potsdam được thành lập vào năm 1912, là xưởng phim quy mô lớn đầu tiên trên thế giới và nay là xưởng phim lớn nhất châu Âu.[260] Các xưởng phim ban đầu và vẫn hoạt động là UFA và Bavaria Film. Điện ảnh Đức ban đầu có ảnh hưởng đặc biệt với các nhà biểu hiện Đức như Robert Wiene và Friedrich Wilhelm Murnau. Metropolis (1927) của đạo diễn Fritz Lang được cho là phim khoa học viễn tưởng lớn đầu tiên.[261] Năm 1930, Josef von Sternberg làm đạo diễn cho Der blaue Engel, phim có âm thanh quy mô lớn đầu tiên của Đức, có mặt diễn viên Marlene Dietrich.[262] Các phim của Leni Riefenstahl đặt ra các tiêu chuẩn nghệ thuật mới, đặc biệt là Niềm tin chiến thắng.[263]

Tập tin:Filmstudio Babelsberg Eingang.jpg
Xưởng phim Babelsberg gần Berlin, xưởng phim quy mô lớn đầu tiên của thế giới

Sau năm 1945, nhiều phim vào giai đoạn ngay sau chiến tranh có thể được mô tả là Trümmerfilm (phim gạch vụn), như Die Mörder sind unter uns (1946) của Wolfgang Staudte Irgendwo in Berlin (1946) của Werner Krien. Các phim Đông Đức nổi bật phần lớn do hãng quốc doanh DEFA sản xuất, gồm có Ehe im Schatten của Kurt Maetzig (1947), Der Untertan (1951); Die Geschichte vom kleinen Muck (1953), Der geteilte Himmel (1964) của Konrad Wolf Jakob der Lügner (1975) của Frank Beyer. Thể loại phim được định nghĩa tại Tây Đức trong thập niên 1950 có lẽ là Heimatfilm ("phim quê hương"); các phim này miêu tả cảnh đẹp của địa phương và đạo đức chính trực của cư dân sống tại đó.[264] Đặc trưng của phim trong thập niên 1960 là các phim thể loại bao gồm các phim phỏng theo tác phẩm của Edgar Wallace Karl May. Một trong các loạt phim Đức thành công nhất trong thập niên 1970 có phim phóng sự tình dục mang tên Schulmädchen-Report (Phóng sự nữ sinh). Trong thập niên 1970 và 1980, các đạo diên Điện ảnh Đức Mới như Volker Schlöndorff, Werner Herzog, Wim Wenders, và Rainer Werner Fassbinder khiến điện ảnh tác giả chủ nghĩa Tây Đức được hoan hô.

Trong số các phim thành công về doanh thu phòng vé, có Erinnerungen an die Zukunft (1970), Das Boot (1981), Die unendliche Geschichte (1984), Otto – Der Film (1985), Lola rennt (1998), Der Schuh des Manitu (2001), Resident Evil series (2002–2016), Good Bye, Lenin! (2003), Gegen die Wand (2004), Das weiße Band – Eine deutsche Kindergeschichte (2009), Konferenz der Tiere (2010), và Cloud Atlas (2012). Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất từng được trao cho Die Blechtrommel vào năm 1979, cho Nirgendwo in Afrika vào năm 2002, và cho Das Leben der Anderen vào năm 2007. Nhiều người Đức từng thắng giải "Oscar" vì thực hiện các bộ phim khác.[265]

Giải thưởng Điện ảnh châu Âu được trao tặng mỗi năm tại Berlin, nơi đặt trụ sở của Viện Hàn lâm Điện ảnh châu Âu. Liên hoan phim quốc tế Berlin trao giải "Gấu Vàng" và được tổ chức thường niên kể từ năm 1951, là một trong các liên hoan phim hàng đầu thế giới.[266] Tượng "Lola" được trao tặng thường niên tại Berlin trong khuôn khổ Giải phim Đức được tổ chức từ năm 1951.[267]

Ẩm thực[sửa]

Tập tin:Black Forest gateau.jpg
Bánh anh đào Rừng Đen, một món tráng miệng của Đức

Ẩm thực Đức biến đổi giữa các khu vực và thường thì các khu vực lân cận chia sẻ một số điểm tương đồng về nấu nướng (như các khu vực miền nam là Bayern và Schwaben chia sẻ một số truyền thống với Thụy Sĩ và Áo). Các loại đồ ăn quốc tế như pizza, sushi, đồ ăn Trung Hoa, đồ ăn hy Lạp, đồ ăn Ấn Độ doner kebab cũng phổ biến và hiện diện, nhờ các cộng đồng dân tộc đa dạng.

Bánh mì là một bộ phận quan trọng trong ẩm thực Đức và các tiệm bánh Đức sản xuất khoảng 600 loại bánh mì chính và 1.200 loại bánh ngọt và bánh mì nhỏ (Brötchen). Pho mát Đức chiếm khoảng một phần ba toàn bộ pho mát sản xuất tại châu Âu.[268] Năm 2012, trên 99% số thịt sản xuất tại Đức là thịt lợn, gà hoặc bò. Người Đức sản xuất xúc xích khắp nơi với khoảng 1.500 loại, trong đó có Bratwurst, Weisswurst, và Currywurst.[269] Năm 2012, thực phẩm hữu cơ chiếm 3,9% tổng doanh số bán thực phẩm.[270]

Mặc dù rượu vang đang trở nên phổ biến hơn tại nhiều phần của Đức, đặc biệt là tại các khu vực sản xuất rượu vang,[271] song đồ uống có cồn quốc gia là bia. Tiêu thụ bia Đức bình quân đạt 110 lít vào năm 2013 và duy trì ở các mức cao nhất thế giới.[272] Các quy tắc nguyên chất của bia Đức có niên đại từ thế kỷ 15.[273]

Năm 2015, Michelin Guide trao tặng cho mười một nhà hàng tại Đức hạng ba sao, là đánh giá cao nhất, trong khi có thêm 38 nhà hàng được hai sao và 223 nhà hàng được một sao.[274] Các nhà hàng Đức được trao tặng huy chương nhiều thứ nhì thế giới sau Pháp.[275][276]

Thể thao[sửa]

Tập tin:Germany champions 2014 FIFA World Cup.jpg
Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức sau khi lần thứ tư giành chức vô địch FIFA World Cup vào năm 2014. Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Đức.

Hai mươi bảy triệu người Đức là thành viên của các câu lạc bộ thể thao, và có thêm mười hai triệu người tập luyện thể thao cá nhân.[277] Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất, Hiệp hội bóng đá Đức có trên 6,3 triệu thành viên và là hiệp hội bóng đá đông đảo nhất thế giới. Giải bóng đá cao nhất của Đức là Bundesliga, thu hút lượng khán giả bình quân cao thứ nhì trong các giải thể thao chuyên nghiệp trên thế giới.[277] Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức giành chức vô địch FIFA World Cup vào các năm 1954, 1974, 1990, và 2014, và giành chức vô địch châu Âu vào các năm 1972, 1980 và 1996. Đức từng đăng cai FIFA World Cup năm 1974 2006 UEFA Euro 1988.

Các môn thể thao có khán giả phổ biến khác gồm thể thao mùa đông, quyền Anh, bóng rổ, bóng ném, bóng chuyền, khúc côn cầu trên băng, quần vợt, đua ngựa và golf. Các môn thể thao dưới nước như thuyền buồm, chèo thuyền, và bơi cũng phổ biến tại Đức.[277]

Đức là một trong các quốc gia dẫn đầu thế giới về thể thao ô tô, các hãng như BMW Mercedes là nhà sản xuất nổi bật của thể thao ô tô. Porsche giành chiến thắng giải đua 24 giờ tại Mans trong 17 lần, và Audi 13 lần (). Tay đua Michael Schumacher từng lập nhiều kỷ lục thể thao ô tô trong sự nghiệp của mình, giành bảy chức vô địch thế giới đua xe công thức một. Ông là một trong các vận động viên được trả lương cao nhất trong lich sử.[278] Sebastian Vettel cũng nằm trong số năm tay đua công thức một thành công nhất mọi thời đại.[279]

Trong lịch sử, các vận động viên Đức là các đối thủ thành công tại Thế vận hội, xếp hạng ba trong bảng tổng sắp huy chương Thế vận hội mọi kỳ (tính cả các huy chương của Đông Đức và Tây Đức). Đức từng đăng cai thế vận hội mùa hè mùa đông năm 1936 lần lượt tại Berlin và Garmisch-Partenkirchen.[280] In Munich it hosted the Summer Games of 1972.[281]

Thời trang và thiết kế[sửa]

Các nhà thiết kế Đức là những người dẫn đầu về thiết kế sản phẩm hiện đại, với các nhà thiết kế Bauhaus như Mies van der Rohe, và Dieter Rams của Braun có vai trò chủ chốt.[282]

Đức là quốc gian dẫn đầu trong ngành công nghiệp thời trang. Công nghiệp dệt may Đức gồm có khoảng 1.300 công ty với trên 130.000 người lao động trong năm 2010, tạo ra doanh thu 28 tỷ euro. Gần 44% sản lượng được xuất khẩu.[283] Tuần lễ Thời trang Berlin và hội chợ thương mại thời trang Bread & Butter được tổ chức hai lần mỗi năm.[284]

München, Hamburg và Düsseldorf cũng là các trung tâm thiết kế, sản xuất và thương mại quan trọng của công nghiệp thời trang nội địa.[285] Các nhà thiết kế thời trang có tiếng đến từ Đức gồm có Karl Lagerfeld, Jil Sander, Wolfgang Joop, Philipp Plein và Michael Michalsky. Các nhãn hiệu quan trọng là Hugo Boss, Escada, Adidas, Puma Triumph. Các siêu mẫu Đức Claudia Schiffer, Heidi Klum, Tatjana Patitz Nadja Auermann đạt được danh tiếng quốc tế.[286]

Ghi chú[sửa]

Tham khảo[sửa]

  1. (1995) Mangold, Max Duden, Aussprachewörterbuch, 6th (bằng German), 271, 53f, Dudenverlag. ISBN 978-3-411-20916-3.
  2. “Germany Top Migration Land After U.S. in New OECD Ranking”. Bloomberg (20 May 2014). Truy cập 29 August 2014.
  3. The Latin name Sacrum Imperium (Holy Empire) is documented as far back as 1157. The Latin name Sacrum Romanum Imperium (Holy Roman Empire) was first documented in 1254. The full name "Holy Roman Empire of the German Nation" (Heiliges Römisches Reich Deutscher Nation) dates back to the 15th century.
    Zippelius, Reinhold [1994] (2006). Kleine deutsche Verfassungsgeschichte: vom frühen Mittelalter bis zur Gegenwart, 7th (bằng German), Beck. ISBN 978-3-406-47638-9.
  4. 4,0 4,1 The Lost German East.
  5. “How US students get a university degree for free in Germany”. BBC (3 June 2015). Truy cập 13 November 2015.
  6. Trần Văn Chánh. Từ điển Hán-Việt — Hán ngữ cổ đại và hiện đại. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. Năm 2014. Trang 2421.
  7. Lloyd, Albert L. (1998). Etymologisches Wörterbuch des Althochdeutschen, Band II (bằng German), 699–704, Vandenhoeck & Ruprecht. ISBN 3-525-20768-9. (for diutisc) Lloyd, Albert L. (1998). Etymologisches Wörterbuch des Althochdeutschen, Band II (bằng German), 685–686, Vandenhoeck & Ruprecht. ISBN 3-525-20768-9. (for diot)
  8. Schulze, Hagen (1998). Germany: A New History, Harvard University Press. ISBN 0-674-80688-3.
  9. “Radiometric dating of the type-site for Homo heidelbergensis at Mauer, Germany”. PNAS (27 August 2010). Bản chính lưu trữ 1 January 2015. Truy cập 27 August 2010.
  10. “World's Oldest Spears”. archive.archaeology.org (3 May 1997). Truy cập 27 August 2010.
  11. “Earliest music instruments found”. BBC (25 May 2012). Truy cập 25 May 2012.
  12. “Ice Age Lion Man is world's earliest figurative sculpture”. The Art Newspaper (31 January 2013). Bản chính lưu trữ 15 February 2015. Truy cập 31 January 2013.
  13. “The Venus of Hohle Fels”. donsmaps.com (14 May 2009). Truy cập 14 May 2009.
  14. “Nebra Sky Disc”, Unesco memory of the World, 2013.
  15. Claster, Jill N. (1982). Medieval Experience: 300–1400, New York University Press. ISBN 0-8147-1381-5.
  16. 16,0 16,1 Fulbrook, Mary (1991). A Concise History of Germany. Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-36836-0, pp. 9–13.
  17. Bowman, Alan K. (2005). The crisis of empire, A.D. 193–337, Cambridge University Press. ISBN 0-521-30199-8.
  18. 18,0 18,1 Fulbrook 1991, p. 11.
  19. The lumping of Germanic people into the generic term 'Germans' has its roots in the Investiture Controversy according to historian Herwig Wolfram, who claimed it was a defensive move made by the papacy to delineate them as outsiders, partly due to the papacy's insecurity and so as to justify counterattacks upon them. See: Wolfram, Herwig (1997). The Roman Empire and its Germanic Peoples, 11–13, California University Press.
  20. McBrien, Richard (2000). Lives of the Popes: The Pontiffs from St. Peter to Benedict XVI, HarperCollins.
  21. Fulbrook 1991, pp. 13–24.
  22. Fulbrook 1991, p. 27.
  23. Nelson, Lynn Harry. The Great Famine (1315–1317) and the Black Death (1346–1351), University of Kansas. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 19 March 2011.
  24. Eisenstein, Elizabeth. (1980). The printing press as an agent of change. Cambridge University Press, pp. 3–43.
  25. 25,0 25,1 Philpott, Daniel (January 2000). "The Religious Roots of Modern International Relations". World Politics 52 (2): 206–245. doi:10.1017/S0043887100002604. 
  26. Macfarlane, Alan (1997). The savage wars of peace: England, Japan and the Malthusian trap, Blackwell. ISBN 978-0-631-18117-0.
  27. For a general discussion of the impact of the Reformation on the Holy Roman Empire, see Hajo Holborn, A History of Modern Germany, The Reformation, Princeton N.J., Princeton University Press, 1959, chapters 6–9 (pp. 123–248).
  28. Gagliardo, G (1980). Reich and Nation, The Holy Roman Empire as Idea and Reality, 1763–1806, 12–13, Indiana University Press.
  29. (1998) A History of Eastern Europe: Crisis and Change, Routledge.
  30. (2002) Region, State and Identity in Central and Eastern Europe, Routledge.
  31. Fulbrook 1991, p. 97.
  32. Henderson, W. O. (January 1934). "The Zollverein". History 19 (73): 1–19. doi:10.1111/j.1468-229X.1934.tb01791.x. 
  33. 33,0 33,1 33,2 33,3 33,4 33,5 33,6 33,7 33,8 “Germany”. U.S. Department of State (10 November 2010). Truy cập 26 March 2011.
  34. Fulbrook 1991, pp. 135, 149.
  35. (2005) Black, John 100 maps, Sterling Publishing. ISBN 978-1-4027-2885-3.
  36. Olusoga, David and Erichsen, Casper W (2010). The Kaiser's Holocaust. Germany's Forgotten Genocide and the Colonial Roots of Nazism. Faber and Faber. ISBN 978-0-571-23141-6
  37. Olusoga, David (18 April 2015). “Dear Pope Francis, Namibia was the 20th century's first genocide”. The Guardian News and Media Limited. Truy cập 11 June 2016.
  38. Crossland, David. “Last German World War I Veteran Believed to Have Died”, Spiegel Online, 22 January 2008. Truy cập 25 March 2011.
  39. (1998) “Introduction”, Versailles: A Reassessment after 75 Years, 1–20, Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-62132-8.
  40. (1998) “Between Compiègne and Versailles: The Germans on the Way from a Misunderstood Defeat to an Unwanted Peace”, Versailles: A Reassessment after 75 Years, 203–220, Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-62132-8.
  41. (1998) “Versailles and International Diplomacy”, Versailles: A Reassessment after 75 Years, 469–505, Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-62132-8.
  42. “GERMAN TERRITORIAL LOSSES, TREATY OF VERSAILLES, 1919”. United States Holocaust Memorial Museum, Washington, DC. Truy cập 11 June 2016.
  43. Fulbrook 1991, pp. 156–160.
  44. Shirer, William L., The Rise and fall of the Third Reich, Simon and Schuster (1960) p.31.
  45. Williamson (2005). Germany since 1815: A Nation Forged and Renewed, 186–204, Palgrave Macmillan.
  46. “PROLOGUE: Roots of the Holocaust”. The Holocaust Chronicle. Truy cập 28 September 2014.
  47. Fulbrook 1991, pp. 155–158, 172–177.
  48. Richard Evans, The Coming of the Third Reich. New York: Penguin, 2003, ISBN 978-0-14-303469-8 p. 344
  49. "Ein Konzentrationslager für politische Gefangene In der Nähe von Dachau" (in German). Münchner Neueste Nachrichten ("The Munich Latest News") (The Holocaust History Project). 21 March 1933. http://www.holocaust-history.org/dachau-gas-chambers/photo.cgi?02. 
  50. “Industrie und Wirtschaft” (bằng German). Deutsches Historisches Museum. Truy cập 25 March 2011.
  51. McNab, p. 54
  52. Evans, Richard J. (2005). The Third Reich in Power. New York: Penguin. ISBN 978-0-14-303790-3 pp. 322–326, 329
  53. Hugo Ehrt, Neuer Harzbote. Heft 13, Fremdenverkehrsverein Bodfeld/Harz, Elbingerode (Harz),2003, p.565. Schütz and Gruber, Mythos Reichsautobahn: Bau und Inszenierung der "Straßen des Führers" 1933–1941, Berlin: Links, 1996, ISBN 9783861531173, pp. 16–17.
  54. McNab, p. 56
  55. Fulbrook 1991, pp. 188–189.
  56. 56,0 56,1 Fulbrook, pp. 190–195.
  57. Axelrod, Alan (2007) Encyclopedia of World War II, Volume 1. Infobase Publishing. pp. 659.
  58. Hiden, John; Lane, Thomas (2003). The Baltic and the Outbreak of the Second World War. Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-53120-7, pp. 143–144.
  59. Steinberg, Heinz Günter (1991). Die Bevölkerungsentwicklung in Deutschland im Zweiten Weltkrieg: mit einem Überblick über die Entwicklung von 1945 bis 1990 (bằng German), Kulturstiftung der dt. Vertriebenen. ISBN 978-3-88557-089-9.
  60. Niewyk, Donald L. (2000). The Columbia Guide to the Holocaust, 45–52, Columbia University Press. ISBN 978-0-231-11200-0.
  61. Institute of National Remembrance (Poland), Polska 1939–1945 Straty osobowe i ofiary represji pod dwiema okupacjami. Materski and Szarota. page 9 "Total Polish population losses under German occupation are currently calculated at about 2 770 000".
  62. 62,0 62,1 Maksudov, S. (1994). "Soviet Deaths in the Great Patriotic War: A Note". Europe-Asia Studies 46 (4): 671–680.
  63. 63,0 63,1 Ian Kershaw.Stalinism and Nazism: dictatorships in comparison. Cambridge University Press, 1997, p.150 ISBN 0-521-56521-9
  64. Overmans, Rüdiger (2000). Deutsche militärische Verluste im Zweiten Weltkrieg, Oldenbourg. ISBN 3-486-56531-1.
  65. Winter, JM (2003). “Demography of the war”, The Oxford Companion to World War II, ebook, Oxford University Press. ISBN 9780191727603.
  66. Overy, Richard (17 February 2011). “Nuremberg: Nazis on Trial”. BBC History. Truy cập 25 March 2011.
  67. Wise, Michael Z. (1998). Capital dilemma: Germany's search for a new architecture of democracy, Princeton Architectural Press. ISBN 978-1-56898-134-5.
  68. Carlin, Wendy (1996). “West German growth and institutions (1945–90)”, Economic Growth in Europe Since 1945, Cambridge University Press. ISBN 0-521-49964-X.
  69. Werner Bührer (24 December 2002). “Deutschland in den 50er Jahren: Wirtschaft in beiden deutschen Staaten”. Informationen zur Politischen Bildung. Bundeszentrale für politische Bildung.
  70. maw/dpa (11 March 2008). “New Study Finds More Stasi Spooks”. Der Spiegel. Truy cập 30 October 2011.
  71. "Germany (East)", Library of Congress Country Study, Appendix B: The Council for Mutual Economic Assistance
  72. Protzman, Ferdinand. “Westward Tide of East Germans Is a Popular No-Confidence Vote”, The New York Times, 22 August 1989. Truy cập 30 October 2011.
  73. “What the Berlin Wall still stands for”, CNN Interactive, 8 November 1999. Truy cập 18 February 2008.
  74. Vertrag zwischen der Bundesrepublik Deutschland und der Deutschen Demokratischen Republik über die Herstellung der Einheit Deutschlands (Einigungsvertrag) Unification Treaty signed by the Federal Republic of Germany and the German Democratic Republic in Berlin on 31 August 1990 (official text, in German).
  75. “Vertrag zwischen der Bundesrepublik Deutschland und der Deutschen Demokratischen Republik über die Herstellung der Einheit Deutschlands (Einigungsvertrag) Art 11 Verträge der Bundesrepublik Deutschland” (bằng German). Bundesministerium für Justiz und Verbraucherschutz. Truy cập 15 May 2015.
  76. “Gesetz zur Umsetzung des Beschlusses des Deutschen Bundestages vom 20. Juni 1991 zur Vollendung der Einheit Deutschlands” (bằng German). Bundesministerium der Justiz (26 April 1994). Truy cập 22 June 2016.
  77. “Brennpunkt: Hauptstadt-Umzug”, 12 April 1999. Truy cập 19 March 2011. (Viết bằng German.)
  78. Kulish, Nicholas. “In East Germany, a Decline as Stark as a Wall”, The New York Times, 19 June 2009. Truy cập 27 March 2011.
  79. “Lisbon Treaty : The making of” (PDF). Council of the European Union. Bản chính lưu trữ 20 May 2013. Truy cập 14 June 2011. trích dẫn: After signature by all 27 Heads of State and governments, the Treaty will travel back to Brussels, where it will be officially sealed with the seals of the 27 Member States, on the 18th of December. Then, it will be sent to Rome, the Italian government being the depository of the Treaties.
  80. Dempsey, Judy. “Germany is planning a Bosnia withdrawal”, 31 October 2006. Truy cập 7 May 2011.
  81. Merz, Sebastian (November 2007). “Still on the way to Afghanistan? Germany and its forces in the Hindu Kush” (PDF) trang 2, 3. Stockholm International Peace Research Institute. Truy cập 16 April 2011.
  82. “Germany agrees on 50-billion-euro stimulus plan”, France 24, 6 January 2009. Truy cập 27 March 2011. Bản chính được lưu trữ ngày 13 May 2011.
  83. “Government declaration by Angela Merkel” (bằng German). ARD Tagesschau (29 January 2014). Bản chính lưu trữ 1 January 2015. Truy cập 15 December 2014.
  84. “Migrant crisis: Migration to Europe explained in seven charts” (28 January 2016). Truy cập 31 January 2016.
  85. 85,0 85,1 85,2 85,3 85,4 CIA. “CIA Factbook”. Truy cập Lỗi khi kêu gọi {{Chú thích web}}: hai tham số url title phải được chỉ định..
  86. “Basic Law for the Federal Republic of Germany”. Deutscher Bundestag. Btg-bestellservice (October 2010). Truy cập 14 April 2011.
  87. “Christian Democratic Union/Christian Social Union”. U.S. Library of Congress. Truy cập 26 March 2011.
  88. “World Economic Outlook Database, April 2015, General government gross debt (National currency, Percent of GDP)”. International Monetary Fund (April 2015). Truy cập 26 January 2016.
  89. “Third quarter of 2015 compared with second quarter of 2015 – Government debt fell to 91.6 % of GDP in euro area”. Eurostat (22 January 2016). Truy cập 26 January 2016.
  90. “German Government Achieves 'Historic' Budget Surplus”. The World Street Journal (13 January 2016). Bản chính lưu trữ 13 March 2016. Truy cập 26 January 2016.
  91. “Reuters: Fitch Affirms Germany at 'AAA'; Outlook Stable”. Reuters (8 January 2016). Truy cập 26 January 2016.
  92. “Federal Constitutional Court”. Bundesverfassungsgericht. Truy cập 25 March 2015.
  93. “§ 2 Strafvollzugsgesetz” (bằng German). Bundesministerium der Justiz. Truy cập 26 March 2011.
  94. Jehle, Jörg-Martin (2009). Criminal Justice in Germany, Forum-Verlag. ISBN 978-3-936999-51-8.
  95. Casper, Gerhard; Zeisel, Hans (January 1972). "Lay Judges in the German Criminal Courts". Journal of Legal Studies 1 (1): 141. doi:10.1086/467481. JSTOR 724014. 
  96. “The Federal States”. Bundesrat of Germany. Truy cập 6 May 2015.
  97. “Example for state constitution: "Constitution of the Land of North Rhine-Westphalia"”. Landtag (state assembly) of North Rhine-Westphalia. Bản chính lưu trữ 17 January 2013. Truy cập 17 July 2011.
  98. “Kreisfreie Städte und Landkreise nach Fläche und Bevölkerung auf Grundlage des ZENSUS 2011 und Bevölkerungsdichte – Gebietsstand 31.12.2013” (bằng German) (XLS). Statistisches Bundesamt Deutschland (October 2014). Truy cập 2 February 2015.
  99. “Bevölkerungszahlen 2011 und 2012 nach Bundesländern” (bằng German). Statistisches Bundesamt Deutschland (August 2013). Truy cập 16 December 2013.
  100. 100,0 100,1 “Gross domestic product – at current prices – 1991 to 2015” (bằng English). Statistische Ämter des Bundes und der Länder (5 November 2016). Truy cập 6 July 2016.
  101. “Historical Exchange Rates Tool & Forex History Data - OFX”.
  102. “The German Missions Abroad”. German Federal Foreign Office. Truy cập 7 May 2015.
  103. “The Embassies”. German Federal Foreign Office. Truy cập 18 July 2012.
  104. “The EU budget 2011 in figures”. European Commission. Truy cập 6 May 2011.
  105. “United Nations regular budget for the year 2011”. UN Committee on Contributions. Bản chính lưu trữ 23 June 2011. Truy cập 6 May 2011.
  106. “Declaration by the Franco-German Defence and Security Council”. French Embassy UK (13 May 2004). Bản chính lưu trữ 27 March 2014. Truy cập 19 March 2011.
  107. Freed, John C., “The leader of Europe? Answers an ocean apart”, 4 April 2008. Truy cập 28 March 2011.
  108. “Aims of German development policy”. Federal Ministry for Economic Cooperation and Development (10 April 2008). Truy cập 26 March 2011.
  109. “Net Official Development Assistance 2009”. OECD. Bản chính lưu trữ 26 April 2011. Truy cập 26 March 2011.
  110. “Speech by Chancellor Angela Merkel to the United Nations General Assembly”, Die Bundesregierung, 21 September 2010. Truy cập 18 March 2011.
  111. “Germany's New Face Abroad”, Deutsche Welle, 14 October 2005. Truy cập 26 March 2011.
  112. “U.S.-German Economic Relations Factsheet”. U.S. Embassy in Berlin (May 2006). Truy cập 26 March 2011.
  113. “The 15 countries with the highest military expenditure in 2011”. Stockholm International Peace Research Institute (September 2011). Bản chính lưu trữ 1 May 2012. Truy cập 7 April 2012.
  114. “Germany to increase defence spending”. IHS Jane's 360. Truy cập 20 January 2016.
  115. “Die Stärke der Streitkräfte” (bằng German). Bundeswehr (10 December 2015). Truy cập 2 January 2016.
  116. “Ausblick: Die Bundeswehr der Zukunft” (bằng German). Bundeswehr. Truy cập 5 June 2011.
  117. “Frauen in der Bundeswehr” (bằng German). Bundeswehr. Truy cập 14 April 2011.
  118. “Trends in International Arms Transfer, 2014”. Stockholm International Peace Research Institute. Truy cập 18 March 2015.
  119. “Grundgesetz für die Bundesrepublik Deutschland, Artikel 65a,87,115b” (bằng German). Bundesministerium der Justiz. Truy cập 19 March 2011.
  120. “Einsatzzahlen – Die Stärke der deutschen Einsatzkontingente” (bằng German). Bundeswehr. Truy cập 11 January 2015.
  121. Connolly, Kate, “Germany to abolish compulsory military service”, 22 November 2010. Truy cập 7 April 2011.
  122. Pidd, Helen, “Marching orders for conscription in Germany, but what will take its place?”, 16 March 2011. Truy cập 7 April 2011.
  123. “The World Factbook”. cia.gov.
  124. Zensus 2011: Bevölkerung am 9. Mai 2011. Retrieved 1 June 2013.
  125. “Population based on the 2011 Census – German Statistical Office ("Destatis")”. destatis.de.
  126. “Significant population growth to at least 81.9 million in 2015 – German Statistical Office ("Destatis")”. destatis.de. Truy cập 21 March 2016.
  127. “Country Comparison :: Population”. CIA. Truy cập 26 June 2011.
  128. “Demographic Transition Model”. Barcelona Field Studies Centre (27 September 2009). Truy cập 28 March 2011.
  129. “Birth rate on the rise in Germany”. The Local. Truy cập 28 September 2014.
  130. “The New Guest Workers: A German Dream for Crisis Refugees”. Spiegel Online (28 February 2013). Truy cập 28 September 2014.
  131. “More skilled immigrants find work in Germany”. Deutsche Welle. Truy cập 28 September 2014.
  132. 132,0 132,1 132,2 “National Minorities in Germany” (PDF). Federal Ministry of the Interior (Germany) (May 2010). Truy cập 23 June 2014.
  133. Auswärtiges Amt Berlin, Konsular Info . Auswärtiges Amt, Berlin. Accessed 17 June 2015.
  134. “German population rises thanks to immigration”. Deutsche Welle. Truy cập 28 September 2014.
  135. “Population and employment: Population with migrant background – Results of the 2010 microcensus” (13 March 2012). Truy cập 28 September 2014.
  136. “International Migration Report 2015 – Highlights”. United Nations Department of Economic and Social Affairs (2015). Truy cập 9 June 2016.
  137. “Bevölkerung nach Migrationshintergrund”. destatis (2014). Truy cập 9 June 2016.
  138. “Fewer Ethnic Germans Immigrating to Ancestral Homeland”. Migration Information Source (February 2004). Truy cập 19 July 2014.
  139. Solsten, Eric (1999). Germany: A Country Study, 173–175, Diane Publishing. ISBN 9780788181795.
  140. Pressekonferenz „Zensus 2011 – Fakten zur Bevölkerung in Deutschland" am 31. Mai 2013 in Berlin
  141. 141,0 141,1 141,2 141,3 “Bevölkerung im regionalen Vergleich nach Religion (ausführlich) -in %-” (bằng German). destatis.de (Zensusdatenbank des Zensus 2011). Federal Statistical Office of Germany (9 May 2011). Truy cập 9 May 2011.
  142. Official membership statistics of the Roman Catholic Church in Germany 2014/15, retrieved 20. June 2016
  143. Official membership statistics of the Evangelical Church in Germany 2014, retrieved 05. June 2016
  144. Religious map based on results for each German district
  145. “Eastern Germany: the most godless place on Earth | Peter Thompson | Comment is free | guardian.co.uk”, Guardian, 22 September 2012. Truy cập 22 September 2012.
  146. “Germany”. Berkley Center for Religion, Peace, and World Affairs. Truy cập 27 March 2015.
  147. REMID Data of "Religionswissenschaftlicher Medien- und Informationsdienst" retrieved 16 January 2015
  148. (June 2009) “Chapter 2: Wie viele Muslime leben in Deutschland?”, Muslimisches Leben in Deutschland (PDF) (bằng German), 80, 97, Bundesamt für Migration und Flüchtlinge. ISBN 978-3-9812115-1-1. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 28 March 2011.
  149. “Religionen in Deutschland: Mitgliederzahlen” (bằng German). Religionswissenschaftlicher Medien- und Informationsdienst (31 October 2009). Truy cập 28 March 2011.
  150. 150,0 150,1 European Commission (2006). “Special Eurobarometer 243: Europeans and their Languages (Survey)”. Europa (web portal). Truy cập 28 March 2011.
    European Commission (2006). “Special Eurobarometer 243: Europeans and their Languages (Executive Summary)”. Europa (web portal). Truy cập 28 March 2011.
  151. European Commission. “Official Languages”. Truy cập 29 July 2014.
  152. (2005) Länderkunde – Deutschland, Österreich, Schweiz und Liechtenstein im Querschnitt (bằng German), Inform-Verlag. ISBN 3-9805843-1-3.
  153. European Commission (2004). “Many tongues, one family. Languages in the European Union”. Europa (web portal). Bản chính lưu trữ 30 April 2011. Truy cập 28 March 2011.
  154. “Sprechen Sie Deutsch?”, 18 March 2010. Truy cập 16 April 2011.
  155. 155,0 155,1 “Country profile: Germany”. Library of Congress (April 2008). Truy cập 28 March 2011.
  156. “The Educational System in Germany”. Cuesta College (31 August 2002). Bản chính lưu trữ 24 July 2011. Truy cập 16 May 2011.
  157. “A German model goes global”. Financial Times. Truy cập 28 September 2014.
  158. Tim Pitman, “Should we follow the German way of free higher education?”, 18 March 2014. Truy cập 17 March 2014.
  159. Sean Coughlan (9 March 2011). “Germany top for foreign students”. BBC. Truy cập 2 April 2016.
  160. Laura Bridgestock (13 November 2014). “The Growing Popularity of International Study in Germany”. QS Topuniversities. Truy cập 2 April 2016.
  161. Björn Bertram. “Rankings: Universität Heidelberg in International Comparison”. Truy cập 28 September 2014.
  162. “Top 100 World Universities”. Academic Ranking of World Universities. Bản chính lưu trữ 22 August 2008. Truy cập 28 March 2011.
  163. “A German Ivy League Takes Shape”. SCIENCE / AAAS. Truy cập 16 May 2008.
  164. (2000) Health Care Systems in Transition: Germany, European Observatory on Health Care Systems. AMS 5012667 (DEU). Địa chỉ URL được truy nhập ngày 15 April 2011.
  165. 165,0 165,1 “Germany statistics summary (2002 – present)”. World Health Organization. Truy cập 4 June 2016.
  166. “2010: Herz-/Kreislauferkrankungen verursachen 41 % aller Todesfälle” (bằng German). Destatis.de. Truy cập 8 May 2015.
  167. 167,0 167,1 “Country Profile Germany” (PDF). Library of Congress Federal Research Division (April 2008). Truy cập 7 May 2011.
    This article may incorporate text from this source, which is in the public domain.
  168. “Topping the EU Fat Stats, Germany Plans Anti-Obesity Drive”, Deutsche Welle, 20 April 2007. Truy cập 25 June 2010.
  169. “Germany launches obesity campaign”, BBC, 9 May 2007. Truy cập 25 June 2010.
  170. 170,0 170,1 “Country Comparison: Exports”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. Truy cập 10 November 2012.
  171. “CPI 2009 table”. Transparency International. Truy cập 15 May 2012.
  172. “The Innovation Imperative in Manufacturing: How the United States Can Restore Its Edge”. Boston Consulting Group (March 2009). Truy cập 19 March 2011.
  173. “Gross domestic product (2009)”. The World Bank: World Development Indicators database. World Bank (27 September 2010). Truy cập 1 January 2011.
    Field listing – GDP (official exchange rate)
  174. “Gross domestic product (2009)”. The World Bank: World Development Indicators database. World Bank (27 September 2010). Truy cập 5 October 2010.
    Field listing – GDP (PPP exchange rate)
  175. 175,0 175,1 Eurostat: Euro area unemployment rate at 11.2%, Press release of 2 March 2015
  176. “Labour productivity levels in the total economy”. OECD. Truy cập 12 December 2014.
  177. Andrews, Edmund L.. “Germans Say Goodbye to the Mark, a Symbol of Strength and Unity”, 1 January 2002. Truy cập 18 March 2011.
  178. Taylor Martin, Susan. “On Jan. 1, out of many arises one Euro”, 28 December 1998, trang National, 1.A.
  179. Germany – The World's Automotive Hub of Innovation, Germany Trade & Invest, Ernst & Young European Automotive Survey 2013, retrieved 25 April 2015
  180. “Production Statistics – OICA”. oica.net.
  181. “CIA Factbook”. Truy cập 23 April 2015.
  182. “Best Global Brands – 2014 Rankings”. Interbrand. Bản chính lưu trữ 15 March 2015. Truy cập 26 March 2015.
  183. Gavin, Mike, “Germany Has 1,000 Market-Leading Companies, Manager-Magazin Says”, 23 September 2010. Truy cập 27 March 2011. Bản chính được lưu trữ ngày 30 April 2011.
  184. “Berlin outranks London in start-up investment”. Truy cập 28 October 2015.
  185. “Global 500 – Fortune”, Fortune. Truy cập 3 July 2016.
  186. “Assessment of strategic plans and policy measures on Investment and Maintenance in Transport Infrastructure” (PDF). International Transport Forum (2012). Truy cập 15 March 2014.
  187. “Road density (km of road per 100 sq. km of land area)”. World Bank (2014). Bản chính lưu trữ 1 January 2015. Truy cập 7 July 2014.
  188. “Geschäftsbericht 2006” (bằng German). Deutsche Bahn. Bản chính lưu trữ 9 August 2007. Truy cập 27 March 2011.
  189. “German Railway Financing”.
  190. “Airports in Germany”. Air Broker Center International. Truy cập 16 April 2011.
  191. “Top World Container Ports”. Port of Hamburg. Truy cập 6 May 2015.
  192. “Overview/Data: Germany”. U.S. Energy Information Administration (30 June 2010). Truy cập 19 April 2011.
  193. “Energy imports, net (% of energy use)”. The World Bank Group. Truy cập 18 April 2011.
  194. Ziesing, Hans-Joachim. “Energieverbrauch in Deutschland im Jahr 2014” (bằng German). AG Energiebilanzen. Truy cập 10 March 2015.
  195. “Germany split over green energy”, BBC News, 25 February 2005. Truy cập 27 March 2011.
  196. “Germany greenest country in the world”, 21 June 2008. Truy cập 26 March 2011.
  197. Brown, Eliot. “Germans Have a Burning Need for More Garbage”.
  198. “Record High 2010 Global Carbon Dioxide Emissions from Fossil-Fuel Combustion and Cement Manufacture Posted on CDIAC Site”. Carbon Dioxide Information Analysis Center. Truy cập 15 May 2012.
  199. Federal Ministry for the Environment (29 March 2012). Langfristszenarien und Strategien für den Ausbau der erneuerbaren Energien in Deutschland bei Berücksichtigung der Entwicklung in Europa und global, Berlin, Germany: Federal Ministry for the Environment (BMU).
  200. “Federal Report on Research and Innovation 2014” (PDF). Federal Ministry of Education and Research (2014). Truy cập 26 March 2015.
  201. “Nobel Prize”. Nobelprize.org. Truy cập 27 March 2011.
  202. “These are the 10 smartest countries in the world when it comes to science”. Business Insider (4 December 2015). Truy cập 26 October 2016.
  203. “Swedish academy awards”. Truy cập 1 October 2010.
  204. National Science Nobel Prize shares 1901–2009 by citizenship at the time of the award and by country of birth. From Schmidhuber, J. (2010). “Evolution of National Nobel Prize Shares in the 20th century”. Truy cập 27 March 2011.
  205. Roberts, J. M. (2002). The New Penguin History of the World, Allen Lane. ISBN 978-0-7139-9611-1.
  206. “The First Nobel Prize”, 8 September 2010. Truy cập 27 March 2011.
  207. Bianchi, Luigi. “The Great Electromechanical Computers”. York University. Truy cập 17 April 2011.
  208. “The Zeppelin”. U.S. Centennial of Flight Commission. Bản chính lưu trữ 1 May 2011. Truy cập 7 May 2015.
  209. “Historical figures in telecommunications”. International Telecommunication Union (14 January 2004). Truy cập 27 March 2011.
  210. “Preparations for operation of Wendelstein 7-X starting”. PhysOrg (13 May 2014). Truy cập 12 December 2014. trích dẫn: Max Planck Institute for Plasma Physics (IPP) in Greifswald in May started the preparations for operation of this the world's largest fusion device of the stellarator type.
  211. “Gottfried Wilhelm Leibniz Prize”. DFG. Bản chính lưu trữ 21 June 2008. Truy cập 27 March 2011.
  212. "Interim Update". UNWTO World Tourism Barometer (UNWTO). April 2011. http://www.unwto.org/facts/eng/pdf/barometer/UNWTO_Barom11_iu_april_excerpt.pdf. Retrieved 26 June 2011. 
  213. Zahlen Daten Fakten 2012 (in German), German National Tourist Board
  214. “Tourism Highlights 2014 edition”. UNWTO. Bản chính lưu trữ 14 February 2015. Truy cập 26 March 2015.
  215. “2013 Travel & Tourism Economic Impact Report Germany”. WTTC. Bản chính lưu trữ 3 December 2013. Truy cập 26 November 2013.
  216. Nortrud G. Schrammel-Schäl, Karl Kessler, Paul-Georg Custodis, Kreisverwaltung des Westerwaldkreises in Montabaur. Fachwerk im Westerwald: Landschaftsmuseum Westerwald, Hachenburg, Ausstellung vom 11. September 1987 bis 30. April 1988. Landschaftsmuseum Westerwald: 1987. ISBN 978-3-921548-37-0.
  217. Heinrich Edel: 1928. Die Fachwerkhäuser der Stadt Braunschweig: ein kunst und kulturhistorisches Bild. Druckerei Appelhaus, 1928
  218. “UNESCO World Heritage – the greatest legacies of mankind and Mother Nature”. Germany.Travel, official site. Truy cập 8 November 2016.
  219. “Top Tourist Attractions of Germany”. Germany.Travel, official site. Truy cập 12 December 2014.
  220. Wasser, Jeremy, “Spätzle Westerns”, 6 April 2006. Truy cập 28 March 2011.
  221. “Germany country profile”. BBC (25 February 2015). Truy cập 17 May 2015.
  222. MacGregor, Neil (28 September 2014). “The country with one people and 1,200 sausages”. BBC. Truy cập 11 December 2014.
  223. “Christmas Traditions in Austria, Germany, Switzerland”. German Ways. Truy cập 12 December 2014.
  224. “World Heritage Sites in Germany”. UNESCO. Truy cập 22 March 2016.
  225. “Artikel 2 EV – Vertrag zwischen der Bundesrepublik Deutschland und der Deutschen Demokratischen Republik über die Herstellung der Einheit Deutschlands (Einigungsvertrag – EV k.a.Abk.)” (bằng German). buzer.de. Truy cập 15 May 2015.
  226. Sifton, Sam. “Berlin, the big canvas”, The New York Times, 31 December 1969. Truy cập 18 August 2008. See also: “Sites and situations of leading cities in cultural globalisations/Media”. GaWC Research Bulletin 146. Truy cập 18 August 2008.
  227. “Germany has the best international reputation”. German Foreign Office (13 November 2014). Truy cập 16 June 2015.
  228. “Achtung! Germany named world's favorite country”, USA Today, 18 November 2014. Truy cập 16 June 2015.
  229. “BBC poll: Germany most popular country in the world”, BBC, 23 May 2013. Truy cập 28 March 2011.
  230. “World Service Global Poll: Negative views of Russia on the rise”, BBC.co.uk, 4 June 2014. Truy cập 15 July 2014.
  231. “Top 100 living geniuses”, The Daily Telegraph, 30 October 2007. Truy cập 15 May 2015.
  232. “The Recorded Music Industry In Japan” (PDF). Recording Industry Association of Japan (2013). Truy cập 8 February 2014.
  233. “Kraftwerk maintain their legacy as electro-pioneers”, Deutsche Welle, 8 April 2011. Truy cập 14 May 2013.
  234. “Minimal Understandings: The Berlin Decade, The Minimal Continuum, and Debates on the Legacy of German Techno”. Journal of Popular Music Studies, Volume 25, Issue 2. Truy cập 12 December 2014.
  235. 238,0 238,1 Marzona, Daniel. (2005) Conceptual Art. Cologne: Taschen. Various pages
  236. (1974) Bronzes, Sculptors & Founders – Signatures, Vol. 2, Chicago, Illinois: Abage Publishers.
  237. (1986) Animals in Bronze: Reference and Price Guide, Woodbridge, Suffolk, England: Antique Collectors' Club Ltd.. ISBN 0-90746-245-6.
  238. Jan Koppmann, "Das Zeitalter des Barock", in M. Thierer (ed.), Lust auf Barock: Himmel trifft Erde in Oberschwaben, Lindenberg: Kunstverlag Fink, 2002, p. 11f.
  239. Wilhelm Süvern: 1971. Torbögen und Inschriften lippischer Fachwerkhäuser in Volume 7 of Heimatland Lippe. Lippe Heimatbund: 1971. 48 pages
  240. Heinrich Stiewe: 2007. Fachwerkhäuser in Deutschland: Konstruktion, Gestalt und Nutzung vom Mittelalter bis heute. Primus Verlag: 2007. ISBN 978-3-89678-589-3. 160 pages
  241. “Art Nouveau — Art Nouveau Art”. Huntfor.com. Bản chính lưu trữ 22 February 2013. Truy cập 25 March 2013.
  242. (2006) A Dictionary of Architecture and Landscape Architecture, Oxford University Press. ISBN 0-19-860678-8.
  243. (21 January 2008) 100 Contemporary Architects, 1, Taschen. ISBN 3836500914.
  244. Dégh, Linda (1979). "Grimm's Household Tales and its Place in the Household". Western Folklore 38 (2): 85–103, pp. 99–101.
  245. History of the Deutsches Wörterbuch from the DWB 150th Anniversary Exhibition and Symposium, Berlin: Humboldt-Universität, 2004. , retrieved 27 June 2012.
  246. Espmark, Kjell (3 December 1999). “The Nobel Prize in Literature”. Nobelprize.org. Truy cập 28 March 2011.
  247. “Annual Report”. International Publishers Association (October 2014). Truy cập 6 July 2016.
  248. Weidhaas, Peter (2007). A History of the Frankfurt Book Fair, 11 ff, Dundurn Press Ltd.. ISBN 978-1-55002-744-0.
  249. “Leipzig Book Fair: Cultural sideshow with a serious side”. Deutsche Welle (13 March 2015). Truy cập 25 April 2015.
  250. “Distribution of TV in Germany”. Astra Sat (19 February 2013). Truy cập 10 December 2014.
  251. “Country profile: Germany”, BBC News. Truy cập 28 March 2011.
  252. “Organization 1950–1954”. Deutsche Welle. Truy cập 15 May 2015.
  253. “ZDB OPAC – start/text”. d-nb.de. Truy cập 1 April 2015.
  254. Purchese, Robert (17 August 2009). “Germany's video game market”. Eurogamer.net. Truy cập 4 March 2012.
  255. “Press releases”. gamescom Press Center (2014). Bản chính lưu trữ 10 February 2015. Truy cập 26 March 2015.
  256. “Made in Germany: The most important games from Germany (German)”. PC Games Hardware (27 November 2011). Truy cập 9 December 2014.
  257. Studio Babelsberg Mit der Erschließung des direkt in der Nachbarschaft befindlichen Filmgeländes mit den Studios Neue Film 1 und Neue Film 2 konnte Studio Babelsberg seine Studiokapazitäten verdoppeln und verfügt so über Europas größten zusammenhängenden Studiokomplex., retrieved 3 December 2013 (German)
  258. “SciFi Film History – Metropolis (1927)”. Truy cập 28 September 2014.
  259. Bordwell, David [1994] (2003). “The Introduction of Sound”, Film History: An Introduction, 2nd, McGraw-Hill. ISBN 978-0-07-115141-2.
  260. (1 July 2003) Leni Riefenstahl: The Seduction of Genius, Bloomsbury Publishing. ISBN 1441159010.
  261. Stephen Brockmann, A Critical History of German Film, Camden House, 2010, p. 286. ISBN 1571134689
  262. “Awards:Das Leben der Anderen”. IMDb. Truy cập 28 March 2011.
  263. “2006 FIAPF accredited Festivals Directory”. International Federation of Film Producers Associations. Truy cập 28 March 2011.
  264. Die Beauftragte der BUndesregierung fuer Kultur und Medien, Deutscher-flimpreis. Accessed 21 May 2015.
  265. The Complete Idiot's Guide to Cheeses of the World – Steve Ehlers, Jeanette Hurt. pp. 113–115.
  266. “Guide to German Hams and Sausages”. German Foods North America. Truy cập 26 March 2015.
  267. “Numbers, data, facts about the organic food sector” (bằng German). Foodwatch. Truy cập 4 June 2015. trích dẫn: Bio-Produkte machen lediglich 3,9 Prozent des gesamten Lebensmittelumsatzes in Deutschland aus (2012).
  268. “German Wine Statistics”. Wines of Germany, Deutsches Weininstitut. Truy cập 14 December 2014.
  269. Samantha Payne, “Top 10 Heaviest Beer-drinking Countries: Czech Republic and Germany Sink Most Pints”, 20 November 2014. Truy cập 6 May 2015.
  270. spiegel.de/international/germany
  271. “Michelin Guide restaurants for Germany”. Truy cập 26 January 2015.
  272. “German cuisine beats Italy, Spain in gourmet stars”, Reuters, 28 March 2011. Truy cập 19 March 2011.
  273. “Schnitzel Outcooks Spaghetti in Michelin Guide”, Deutsche Welle, 15 November 2007. Truy cập 6 April 2012.
  274. 277,0 277,1 277,2 “Germany Info: Culture & Life: Sports”. Germany Embassy in Washington, D.C. Truy cập 28 March 2011.
  275. Ornstein, David. “What we will miss about Michael Schumacher”, 23 October 2006. Truy cập 19 March 2011.
  276. “Vettel makes Formula One history with eighth successive victory”, Irish Independent, 17 November 2013.
  277. Large, David Clay, Nazi Games: The Olympics of 1936. W. W. Norton & Company, 2007, ISBN 9780393058840 p. 136.
  278. Large, p. 337.
  279. “Bauhaus: The Single Most Influential School of Design”. gizmodo (13 June 2012). Truy cập 9 December 2014.
  280. “BMWI Branchenfokus Textil und Bekleidung”. Truy cập 28 September 2014.
  281. “Berlin as a fashion capital: the improbable rise”. Fashion United UK (12 January 2012). Truy cập 15 May 2015.
  282. Die deutsche Mode kommt aus der Provinz. BRIGITTE. Truy cập 28 September 2014.
  283. “German Cultures Today: Fashion Stars – One Germany in Europe”. German History Docs GHDI. Truy cập 26 April 2015.

Liên kết ngoài[sửa]

Chính phủ
Thôn tin tổng quát

Liên kết đến đây

Xem thêm liên kết đến trang này.