Dịch học họ Hùng/Bài 29
Dịch học họ HÙNG . bài 29
14 – Cặp Quẻ: Đông – Đủ[sửa]
Đối chiếu với cặp Quẻ Trung phu tiểu quá ta mới hiểu đầy đủ trọn nghĩa về 2 cặp quẻ:
Trung phu tiểu quá: nghĩa là với sự tin tưởng trong lòng thì chỉ một số ít vượt qua được, từ phần trước ở cuốn sách này ta đã biết một chế độ xã hội phải có một cơ sở hạ tầng kỹ thuật phù hợp, với sự tin tưởng trong lòng không thôi thì chỉ một số ít người chấp nhận được sự chuyển đổi xã hội sang chế độ cao hơn, lý tưởng hơn khi tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa cho phép.
Với cặp quẻ Đông – Đủ hay xếp ngược lại là Đủ – Đông hàm ý khi đã hội đủ điều kiện vật chất kỹ thuật thì sự chuyển đổi mới có thể được số đông chấp nhận.
Đại quá nghĩa là đại đa số chấp nhận chuyển biến xã hội.
Thí dụ: không thể công hữu hóa tài sản để đại sản xuất khi chưa tự động hóa, mọi thiết bị hoạt động trong nền kinh tế.
Trong trường hợp này chỉ có một số ít là “cán bộ” … chịu chấp nhận mà thôi... còn với số đông tức đại đa số dân chúng thì phải đợi khi hội đủ điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật thì mới có thể tiến hành công hữu hóa được.
Vế trên là: Trung phu - Tiểu quá
Vế dưới là: Di – Đại quá
Hay Đủ – Đông (Đông đủ)
A – Quẻ Đủ = Tranh / Phong (đầy)
Quẻ đủ về ý nghĩa giống như quẻ Di trong Dịch Trung Hoa. Di là nuôi… nghĩa là chưa đủ điều kiện phải vỗ nuôi cho lớn thêm lên.
Nhưng cấu tạo 2 quẻ khác hẳn dịch học người Tàu là: Sơn lơi di, còn Trạch phong lại là: Quẻ tiểu quá.
Trạch là cái hồ để chứa nước, còn phong về vật chất là gió là cái cây nhưng về hành động Quẻ Phong lại chỉ sự giao lưu, truyền thông. Trạch trên phong tượng là cái hồ thông với sông, nhiệm vụ của nó là trữ nước lấy từ sông để điều hòa dòng chảy, thánh nhân lấy tượng tích nước cho đầy hồ ra quẻ đủ, hay đầy.
a)
Lời
Quẻ:
Di – Trinh cát – Quan di – tự cầu khẩu thực
Vỗ nuôi, bồi bổ – là chuyện cả đời, tốt thôi vì đấy là lẽ tự nhiên. Nhìn cách nuôi dưỡng, có thể xác định được kẻ tốt, người xấu, tiểu nhân hay quân tử.
Bậc trưởng nhân phải tự nuôi lấy mình, hay tự kiếm sống không sống nhờ vả ai cả.
Không phải chỉ là chuyện cá nhân, ngay quốc gia cũng vậy, muốn được người trọng thì phải tự lực cánh sinh mà thôi, cứ anh cả chị cả… mãi thì chẳng ai coi mình ra gì.
b) Lời tượng
Di Quân Tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực.
Vì chưa tới mức nên còn phải nuôi, vỗ nuôi cho lớn thêm nữa mới được. Tình thế chưa chín mùi, tức thời cơ chưa tới đâu, đừng nói quá, đao to búa lớn để mang tiếng nổ, nói khoác, phải tiết ẩm thực là vẫn còn phải dành dụm, chắt bóp, để đầu tư phát triển chưa tới lúc hưởng thụ đâu mà sáng say chiều xỉn.
c) Lời Hào:
c.1) Hào Sơ
Xả nhĩ linh quy, quan ngã đóa đi hung.
Đánh mất tư cách của mình, nhìn chằm chằm vào miệng người ta ăn xấu.
Đói cho sạch rách cho thơm, có đói chết cũng phải giữ tư cách của mình, nhìn chằm chằm vào miệng người ta ăn, ở đây không phải chỉ nói chuyện ăn đâu, ở đời trâu buộc ghét trâu ăn, thấy ai hơn mình thì lồng lộn lên, tư cách như thế hung là phải.
c.2) Hào nhị:
Điên di phất kinh vu khâu, chinh hung dã
Lối kiếm ăn ngược đời, chỉ biết xin viện trợ của nước giàu, nếu có chiến tranh chết đói là cái chắc.
Viện trợ chỉ có thể cứu đói, làm sao có thể tích lũy xây dựng cơ sở vật chất bằng đường đi xin… ở đời đâu có ai cho không? dại dột đi đổi chủ quyền quốc gia lấy một đống đồ ve chai đồng nát…, không những không có tư cách mà còn là sự ngu đần, kém trí không biết tính toán.
c.3) Hào Tam:
Phất di, Trinh hung, thập niên vật tuất, vô du lợi.
Làm ăn gian dối, cứ như thế mãi sẽ gặp nạn, nguy hiểm.
Cả thời gian dài cũng không ngóc đầu lên được, chẳng có gì là lợi nữa.
Trên thương trường uy tín là điều tối cần thiết, làm ăn gian dối chỉ được một thời gian thế nào cũng bể, đã mất uy tín rồi thì coi như tàn đời, không thể khôi phục lại được đâu. Chẳng còn là ăn gì được nữa.
c.4) Hào Tứ:
Điên di, cát, Hổ thị Đam đam, kỳ dục trục trục, vô cữu.
Tích lũy bằng sức lao động của người dân, tốt (không phải đi xin viện trợ) luôn tìm cơ hội với khát vọng vươn lên cháy bỏng, không lỗi gì.
Ít khi nào có nghịch lý: trái lẽ thường mà lại tốt như hào từ này.
Tự lực, tự cường cũng là chuyện hiếm trong một thế giới chỉ ngửa tay chờ viện trợ.
c.5) Hào Ngũ:
Phất kinh cư trinh cát, bất khả thiệp đại xuyên
Mất chí tiến thủ, bằng lòng với cái hiện có như thế thì tốt thực nhưng không thể nên đại sự.
Hào ngũ là ngôi tôn, ngôi tôn phải biết lấy sơn hà xã tắc làm trọng, còn cái ngai của mình có đáng gì, quốc gia đã phú cường chưa, nhân dân đã sung sướng chưa? Mà đã thỏa mãn, cốt bo bo giữ ghế thôi à? Chí như thế đâu có xứng với ngôi.
c.6) Hào Thượng:
Do di, lệ, cát – lợi thiệp đại xuyên
Muôn dân trông chờ vào mình, coi thường hiểm nguy, rồi sẽ tốt đẹp trách nhiệm và ý chí như thế chắc làm nên chuyện lừng lẫy năm châu bốn bể.
B/ Quẻ Đông = Sơn/ Lôi
Quẻ này tương cận với Quẻ Đại Quá, tức số đông nhưng cấu tạo thì khác.
Trạch phong :đại quá
Sơn Lôi :Đông (số)
So sánh với Quẻ ít hay Tiểu quá ta mới hiểu:
Lôi Sơn = Tiểu Quá
Sơn Lôi = Đại Quá
Động trên Đỉnh núi chỉ một số ít người vượt qua được (Lôi – Sơn)
Động ở dưới chân núi, thì số Đông qua được.
Trạch phong đại quá như Dịch học của Tàu thì … không hiểu.
a) Lời Quẻ:
Đại Quá, đống mạo, lợi hữu du vãng, hanh.
Quẻ đại quá hay số đông, áp lực buộc phải chuyển đổi đã quá lớn đến cây cột chống muốn cong lại, phải thay đổi thôi mọi việc trôi chảy.
Trình độ kỹ thuật, máy móc đã bước quá xa, mà chế độ xã hội không cải cách theo, nên áp lực buộc thay đổi đã trở nên lớn tới mức muốn bùng nổ cách mạng. (đống nạo)
b)
Lời
tượng
Đại quá , quân tử dĩ độc lập bất cụ, độn thế vô muôn
Đại quá hay Quẻ số đông.
Bậc trưởng nhân đứng một mình không sợ, ẩn cư không buồn.
Lời tượng phát triển ý: Đại quá là hùa theo nhau của đám đông, tình thế đã bắt phải thay đổi lúc đó mới chuyển động, như vậy là luôn luôn chậm hay bất cập, làm phí hẳn một thời gian, bậc trưởng nhân suy nghĩ độc lập không hùa theo số đông, nếu bọn chúng tẩy chay mình vì sự trái ngược khiến mình phải ẩn cư trốn đời cũng chẳng phiền muộn gì.
Xã hội nào cũng luôn luôn có một số đông phàm tục và một số ít cao trọng. Thường là những lời trái tai sẽ bị số đông bài bác nhưng bậc trưởng nhân không hề thay đổi lập trường, cùng lắm là ẩn thân vui với thiên nhiên để chờ thời, tức chờ khi đám đông tỉnh ngộ khẩn cầu mới ra tay cứu vớt.
c) Lời Hào
c.1) Tạ dụng bạch mao vô cữu
Lót đệm mà dùng cỏ trắng, không lỗi.
Sự bùng nổ cách mạng của quần chúng rất dễ trở nên quá khích, quá trớn lúc ấy thực vô cùng tai hại, đập hết, đốt hết tổn hại không sao kể xiết, để tránh việc này xảy ra những người có trách nhiệm phải hết sức khôn khéo, mềm dẻo, tránh sự chọc tức, khiêu khích đám đông.
c.2) Hào nhị
Khô dương sinh đề, lão phu đắc kỳ nữ thê, vô bất lợi.
Đời sống tinh thần, đạo đức và đời sống kinh tế vật chất thường bước song đôi nhịp nhàng, trường hợp hào nhị này đời sống đạo đức, tinh thần tiến lên trước (lão phu), sau đó khá xa đời sống vật chất mới được nâng lên (kỳ nữ thê) đạt được như thế thì không gì là không lợi.
c.3) Hào Tam
Đống nạo – Hung
Đã đến thời điểm phải chuyển đổi nhưng chưa khởi động nên áp lực đè nặng ghê gớm, cột nhà tượng trưng cây cột chống đỡ cho chế độ đã chịu không nổi nữa rồi, thay đổi ắt phải tới thôi.
c.4) Hào Tứ
Đống long, cát, hữu tha, lận
Cột nhà dựng đứng, tốt lắm, ý nói cán bộ cấp cao, cấp trung và cấp thấp đều tốt, sức chống đỡ của cái cột rất khỏe nên tốt lắm.., còn với bên ngoài nhà mình, đành chịu thẹn không làm sao giúp được cả thiên hạ.
c.5) Hào ngũ
Khô dương sinh hoa, lão phu đắc kỳ sĩ phu, vô cữu, vô dự.
Cây khô bỗng sinh hoa, bà lão được chồng trai trẻ, không lỗi, không vinh dự gì.
Tâm bất cập trí, khoa học, kỹ thuật đã bước xa lắm, đạo đức lương tâm mới chuyển biến theo (bà lão lấy chồng trẻ) thực không vinh dự gì, vì đã không nhận ra sự bất cập này chỉ khi đã bị dồn tới chân tường mới phản ứng mà thôi.
c.6) Hào thượng
Quá thiệp, diệt đính, hung vô cữu.
Vượt sông lội ngập đầu, nguy hiểm nhưng không có lỗi.
Làm
cách
mạng
mà
không
thông
hiểu
và
nắm
vững
tình
hình,
không
rõ
thời
cơ
và
tương
quan
đôi
bên
để
đến
độ
rơi
vào
cảnh
nguy
nan
(ngập
đầu)
xấu
vô
cùng
nhưng
không
lỗi
vì
ý
tốt
chỉ
tại
trí
chưa
đủ
mà
thôi.
Mục lục[sửa]
Phần I[sửa]
- Lời dẫn nhập
- Trống đồng và quê hương dịch lý
- Dịch học hình tượng
- Thập nhị địa chi
- Dịch học tượng số
- Hà thư và Chục con
- ý nghĩa Hà thư
- Lạc đồ
- Dịch học tượng vạch
- Bát quái
- Tam tài-Ngũ hành
- Cửu trù
- vận dụng ngũ hành và Cửu trù
Phần II[sửa]
- 64 quẻ trùng
- quẻ Lớn mạnh
- quẻ Khôn ngoan
- cặp quẻ Mờ-mịt
- cặp quẻ Cầu cạnh
- cặp quẻ Kết-Đoàn
- cặp quẻ Li-Ti
- cặp quẻ Suôi-Ngược
- cặp quẻ Cùng-Chung
- cặp quẻ Khiêm-Dự
- cặp quẻ Tùy-Cải
- cặp quẻ Đôn-Đáo
- cặp quẻ Cưỡng-Bức
- cặp quẻ Bái-Phục
- cặp quẻ Tựu-Thành
- cặp quẻ Đủ-Đông
- cặp quẻ Khổng-Lồ
- cặp quẻ Hợp-Hành
- cặp quẻ Ranh-Mãnh
- cặp quẻ Mọc-Lặn
- cặp quẻ Chống-Đánh
- cặp quẻ Nan-Giải
- cặp quẻ Tổn-Ích
- cặp quẻ Cả-Quyết
- cặp quẻ Lỏng-Khỏng
- cặp quẻ Tu-Tỉnh
- cặp quẻ Thay-Đổi
- cặp quẻ Lôi-Cản
- cặp quẻ Tùng-Tiệm
- cặp quẻ Giam-Giữ
- cặp quẻ Chứa-Chan
- cặp quẻ Giao-Đổi
- cặp quẻ Trung phu-Tiểu qúa
- cặp quẻ Khép-Khởi
- lời Kết
Bản quyền[sửa]
- Nguyễn Quang Nhật
- http://nguyenquangnhat.page.TL
Bài liên quan
Liên kết đến đây
- Dịch học họ Hùng
- Dịch học họ Hùng/Bài 1
- Dịch học họ Hùng/Bài 2
- Dịch học họ Hùng/Bài 3
- Dịch học họ Hùng/Bài 4
- Dịch học họ Hùng/Bài 5
- Dịch học họ Hùng/Bài 6
- Dịch học họ Hùng/Bài 7
- Dịch học họ Hùng/Bài 8
- Dịch học họ Hùng/Bài 9
- Xem thêm liên kết đến trang này.