Dịch học họ Hùng/Bài 34

Từ VLOS
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm

Dịch học bài 34


19. Cặp Quẻ: chống – đánh[sửa]

Dich 341.jpg


Dịch học của Tàu gọi là Khuê – Sư

Dịch học họ Hùng và Dịch Tàu khác nhau ở Quẻ Sư – đánh ; phong hỏa – đánh hay sư (quân) Dịch học Tàu là : Địa Thủy Sư.

Phong hỏa hay phong hoả đài là công cụ chiến tranh của Trung Hoa. Tức là cái đài cao đốt củi cho khói lên, làm hiện lên hiệu lệnh hành quân, thánh nhân dùng tượng này để đặt tên quẻ sư – tức việc quân, hay hành quân, tiếng Việt gọi là đi đánh.

Dịch học Tàu: Địa Thủy Sư là: nước ở trong đất là:… không hiểu.

A- Quẻ chống hay Khuê Hỏa/ Trạch

Trạch là cái Hồ, Hồ thì chứa nước là hợp lẽ tự nhiên, ở đây hồ chứa lửa đúng là ngược ngạo, chống lại lẽ tự nhiên nên đặt tên là chống hay khuê có nghĩa là ngược ngạo, hay trái nghịch.

Cũng có thể dùng thoáng hơn là quân hay lũ nghịch tặc vô đạo

Có nhiều người ngày nay đang nói đến cái gọi là tư tưởng Trung Hoa, thực ra đích danh phải gọi là tư tưởng Hãn hay Tàu mới đúng…. Một khía cạnh đặc trưng của tư tưởng ấy là: cứ khom lưng làm trâu ngựa cho anh cỡi thì không sao, còn có ý khác là: thời xưa thì lập tức biến thành quân nghịch tặc vô đạo… hỏi đạo gì? Còn ngày nay thì thành…. Phản động… hỏi động gì? Động chiều nào mà phản.

Mà đã chống là phải đánh hay đả… kết quả là nhà tan cửa nát, ôi nay sao mà còn giống xưa đến thế.

a) Lời quẻ

Khuê, tiểu sự – cát

Trái nghịch, có thể vận dụng vào việc nhỏ, như chế tạo công cụ lao động để kiếm sống – tốt lắm.

Thí dụ về việc vận dụng khuê là chế tạo cái cung, 2 cánh cung vận động trái chiều tạo thành lực truyền vào mũi tên qua dây cung

Cung và tên là loại công cụ đánh dấu một bước tiến bộ trong quá trình phát triển văn minh của loài người, đây chính là tiểu sự – cát.

b) Lời tượng:

Thượng hỏa hạ trạch Khuê, quân tử dĩ đồng nhi dị.

Thiên hạ ai cũng bằng ai, tức cào bằng tất cả đấy là Đồng nhi đồng còn đồng nhi dị là mỗi người tận dụng hết khả năng thiên phú của mình và ngược lại cũng thu nhập tùy theo sự đóng góp, nói theo từ ngày nay là làm nhiều, hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, và lẽ dĩ nhiên chữ làm phải hiểu theo cả chất và lượng. Một giờ đóng góp của nhà bác học không thể nào coi là bằng với một giờ của anh thợ sửa xe đạp lề đường.

Đấy là ý nghĩa của Đồng nhi dị.

c) Lời Hào

c.1) Hào Sơ

Hối vong – táng mã – vật trục tự phục, kiến ác nhân vô cữu

Không phải ân hận gì, mất ngựa chẳng phải tìm, tự nó tìm về vì ngựa là loài trung thành với chủ, tục ngữ Việt có câu giữ người ở lại chứ làm sao giữ được người (bỏ) đi.

Đã có lòng thủy chung thì dù phải tạm chia ly, chắc chắn cũng có ngày đoàn tụ, còn người đã muốn rời bỏ ta không quay về thì có tìm thấy cũng vô ích, kẻ bất trung bất tín như thế rồi ra sẽ trở thành ác nhân, mình không lỗi gì cả vì việc này.

c.2) Hào nhị

Ngộ chủ vu hạng, vô cữu

Gặp chủ ở đường hẹp, không lỗi.

Đường hẹp hay ngõ hẹp là trái nghịch với đường thênh thang, đường thênh thang chỉ lúc vận hội hanh thông, làm ăn thuận lợi, phát tài phát lộc, công danh sự nghiệp đang vẻ vang .. nhận chủ tớ lúc đó là bình thường, đi theo phò tá để kiếm chác chút đỉnh.

Còn kết giao bằng hữu hay nhận chủ tớ lúc còn hàn vi, công danh sự nghiệp chưa đến thì đó là lòng thành tín thực sự – còn lỗi gì nữa.

c.3) Hào Tam:

Kiến dư duệ, kỳ ngưu xiết, kỳ nhân thiên thả ti, vô sở hữu chung.

Sự phát triển xã hội trở nên ì ạch, vì con trâu kéo xe bị cản, nghĩa là động lực thúc đẩy sự hăng say làm việc là lợi nhuận không có, chống đối cách mạng, lũ phản động đang bị trừng trị thích đáng, xâm mặt cắt mũi, đây là cuộc cách mạng vô sở hữu – Tất cả là của chung.

Hào tam chủ lợi, giờ cách mạng rồi không còn lợi nhuận riêng tư bỏ túi nữa nên tất cả trở nên ì ạch, cỗ xe phát triển được trâu kéo, nghĩa là chính lợi ích vật chất thu được thúc đẩy người ta tăng năng suất thậm chí lao động quên mình , có như thế cỗ xe kinh tế mới đi tới được, bọn tù nhân bị xâm mặt cắt mũi chính là bọn phản động, chống đối chính sách. Chống lại cách mạng .

Không còn là của riêng ai , tất cả là của chung .


c.4) Hào Tứ

Khuê cô, ngộ nguyên phu, giao phu lệ, vô cữu.

Đơn độc chống đối, gặp đồng chí cũ, thành tín kết giao, nguy hiểm, không lỗi.

Ngộ nguyên phu nghĩa đen là gặp người trước đây đã tin tưởng, dịch thoáng là: gặp lại bạn đồng chí cũ,giao phu nghĩa là thề ước sinh tử có nhau, nguy hiểm vì không còn là cá nhân chống đối nữa mà thành một lực lượng chống đối tức chống đối có tổ chức như thế tội sẽ nặng hơn nhiều ...

c.5) Hào ngũ

Hối vong, quyết tông phệ phu, vãng hà cữu

Hối thẹn tiêu tan, thề sống chết cùng đồng đảng, tiến đi, đâu có gì sai.

Lực lượng chống đối đã thành một đảng, của những người đồng chí hướng sống chết với nhau quyết thực hiện cho được mục đích đã đề ra, quyết đi tới cùng con đường đã chọn.

c.6) Hào thượng

Khuê, cô, kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xe, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ, phỉ khấu hôn cấu vãng ngộ vũ tắc cát.

Hào ngũ là đã có minh chúa, vậy mà mình cứ một mực chống phá tới cùng, không nghĩ gì đến cảnh dân chúng điêu linh, sẽ không còn ai ủng hộ nữa, lúc ấy đội quân nổi dậy rất dễ biến thành lũ trộm cướp.

Đến hào ngũ là đã đắc vương đạo, đã có minh chúa tôi hiền mà còn tiếp tục chống lại là không còn chính nghĩa, lộ nguyên hình là kẻ mưu đồ xấu xa tư cách đê tiện, và đồng đảng là lũ quỹ hung ác (heo và quỷ).

Bậc trưởng nhân định tiêu diệt chúng không thương tiếc, nhưng sau mở đức hiếu sinh (dương cung rồi hạ cung) “chiêu hồi” chúng, cho chúng cơ hội hoàn lương (trời mưa sẽ rửa sạch bùn), rửa sạch tội lỗi xấu xa, kết cục thực “có hậu”.

B- Quẻ đánh hay sư = Phong/ Hỏa

Quẻ phong trong quẻ trùng này, nghĩa là khói chứ không phải gió, phong hỏa đài có nghĩa là dùng hệ thống đài đốt lửa để thông tin quân sự, điều binh mã từ nơi xa, nên đặt là quẻ đánh hay hành binh.

a) Lời Quẻ:

Sư – Trinh – Trượng nhân cát – vô cữu .

hành brinh, phải nhất quan về hiệu lệnh (trinh), bậc trượng nhân đức cao trọng vọng cầm quân mới tốt, không lỗi gì.

b) Lời tượng

Phong tự hỏa xuất, sư, quân tử dĩ ngôn hữu vật, nhi hạnh hữu hằng.

Lửa đẻ ra – khói, lửa khói được dùng làm tín hiệu điều binh, xem tượng ấy bậc trưởng nhân nói phải đi đôi với làm, thường xuyên giữ gìn đức hạnh, để quần chúng trông vào mà tin tưởng.

Tục ngữ Việt nói không có lửa sao có khói, như vậy khói là tín hiệu để nhận ra lửa, việc nói năng trung thực, gìn giữ phẩm hạnh là tín hiệu để người khác nhận biết bậc quân tử hay chỉ là ngụy quân tử.

c) Lời Hào

c.1) Hào Sơ

Sư xuất dĩ luật, phủ tàng hung

Xuất quân với kỷ luật nghiêm minh không như vậy sẽ nguy hiểm.

Kỷ luật còn có nghĩa là chấp hành hiệu lệnh, hiệu lệnh phải nhất quán trong toàn quân, ngày xưa thường dùng cờ và tiếng trống, làm sao cả đạo quân nhận lệnh và thực hiện lệnh phối hợp một cách nhịp nhàng như những cơ phận trong thân thể con người như thế mới có thể thắng trận.

Phủ tàng là còn ngược lại sẽ nguy hiểm, hung

c.2) Hào nhị

Tại sư trung cát, vô cữu, vương tam tích mệnh

Cầm quân phải thực sự công minh, rất tốt, không mắc lầm lỗi, vua nhiều lần ban thưởng.

Đạo cầm quân là phải trên dưới như một, muôn người như một, muốn được như vậy vị chỉ huy phải thực sự công minh, chính trực, công minh là rõ ràng và công bình, đấy là đức hạnh của bậc tướng soái bên cạnh tài ba, có người cầm quân như thế đạo quân ấy chắc chắn trở thành đạo quân bách chiến bách thắng ( Vương tam đích mệnh)

c.3) Hào Tam

Sư hoặc dư thi, hung

Không có tư lệnh chiến trường, thực nguy hiểm

Nghĩa đen là việc quân mà giao cho nhiều đầu mối, hung

Chiến trường phải được chỉ huy thống nhất như con người chỉ có một cái đầu, mệnh lệnh phát ra, từ đó phối hợp các bộ phận cơ thể cùng quy về một mục đích nhất định như tư lệnh phát mệnh lệnh điều động, phối hợp các cánh quân, các binh chủng hợp đồng tác chiến, có nhịp nhàng thống nhất như một cơ thể thì mới hòng thắng trận.

c.4) Hào Tứ

Sư tả thứ vô cữu

Tạm lui quân, không lỗi

Nghệ thuật cầm quân không phải chỉ biết có tiến, mà tùy lúc, tùy tình thế phải biết tiến thối đúng theo kế hoạch, rút cũng là một cách tiến công vậy, từ quân sự gọi là rút lui chiến thuật… nghĩa rút cũng là một cách đánh mà thôi nên đâu lỗi gì.


Một nghĩa khác có thể hiểu:

Sư tả thứ vô cữu là quá lạm vũ lực rồi, có những việc không thể chỉ một mực đối phó cứng rắn là xong nhiều khi phải dụ, vỗ về giảng việc nhân nghĩa… để tránh đổ máu phí phạm mà kết quả lại rất căn cơ đấy gọi là “tâm công” ngày nay thường gọi là: tâm lý chiến, hay chiến tranh chính trị. Như vậy tạm lui quân sao có lỗi được.

c.5) Hào ngũ

Điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu trưởng tử sáng (xuất) sư, đệ tử dư thi , trinh hung.

Ruộng bị chim ăn lúa, phá phách, xuất quân trừ diệt là chính đáng, phải dùng vị tướng tài đức vẹn toàn, tướng suy kém tài đức hơn sẽ tổn thất nhiều. Kéo dài việc này mãi, xấu.

Điền hữu cầm thực ra là hình ảnh đã danh chính ngôn thuận để xuất binh, vì đây là giặc trong nước chứ không phải ngoại xâm nên vị tướng cầm quân phải tài đức vẹn toàn để thực hiện việc vừa ân, vừa uy không phải chỉ một mực muốn tiêu diệt, trinh hung là nếu cứ phải hành binh mãi thì xấu, để sa lầy trong cuộc chiến thì xấu lắm. Ý nói cuộc chiến phải nhanh chóng chấm dứt, nhanh chừng nào tốt chừng ấy.

c.6) Hào thượng:

Đại quân hữu mệnh, khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng.

Việc chiến chinh là bắt buộc để bậc đế vương thụ mệnh trời mà vì bá tính lập nên một triều đại mới, tuyệt đối không giao binh quyền cho kẻ xấu

Câu này cũng có thể hiểu là : tiểu nhân tuyệt đối không được đụng đến việc quân binh

Mục lục[sửa]

Liên kết đến đây

Xem thêm liên kết đến trang này.