Dịch học họ Hùng/Bài 20
Dịch học bài 20
5. Cặp quẻ: Lý – Nhí (nhỏ) hay Ly – Ty[sửa]
Cặp
Quẻ
này
nói
lên
điều
gì?
Khi còn phải dùng lý lẽ để phân phải trái, đúng sai với người tức sự bao dung của bản thân còn bé nhỏ, lòng nhân từ còn hạn hẹp nên còn phân biệt Ta – Người .
còn một ý nữa, xã hội hay cộng đồng luôn song song 2 dòng tiến hóa. Dòng sinh và dòng khắc. Ở dòng khắc Dịch học dạy bậc trưởng nhân phải “vô vọng để đại súc” tức sự bao dung vô bờ, vô vọng và đại súc là một cặp Quẻ, nếu đối chiếu với cặp Quẻ Lý – Tiểu Súc tên gọi theo Hán ngữ của cặp Quẻ Lý – nhí này ta mới hiểu trọn ý của Dịch học, lý – nhí là chủ trương ở dòng sinh, một đàng là lý tưởng của một đàng là bình thường, cả 2 song hành tạo nên sự tiến hóa xã hội. Đặc biệt 2 dòng diễn biến một cho bên trong lòng mình, lúc nào bậc trưởng nhân cũng phải quyết tâm đi theo nhưng với xã hội lại phải theo dòng sinh; lầm lẫn trong ngoài là một đại họa.
A – Quẻ Lý = lẽ = phong/thiên
Lý, lẽ chi phối mọi biến chuyển trong vũ trụ, ở khắp mọi nơi, nhưng mắt không nhìn thấy, chỉ cảm nhận được như là gió ở trên trời vậy.
a) Lời Quẻ: Lý: Hổ vĩ, bất diệt nhân, hanh.
Hổ là con hổ, hổ cũng là sự sáng suốt văn minh tượng của quẻ Ly, đi theo Hổ tức là theo khoa học không đi càn hay làm việc gì cũng phải có lý lẽ để tránh thất bại thảm hại (bất diệt nhân), hợp quy luật dĩ nhiên là hanh thông
b) Lời Tượng: Lý: Quân tử dĩ biện Thượng hạ định dân chí.
Lý lẽ để phân biệt đúng sai, phải trái, điều quí trọng điều hèn hạ.
Ở đây ta hiểu lý là đức sáng suốt, sự thông minh, hiểu được cái lẽ của tự nhiên, cái nên hay không nên làm trong cuộc sống, điều tốt, cái đẹp là “thượng”, xấu xa là “hạ” đã biện biệt được ắt chí của con người sẽ hướng thượng, hướng đến chân thiện mỹ, như vậy Dịch học gọi là định dân chí.
Cặp quẻ Lý và Tiểu súc trong Dịch học họ Hùng và Dịch học của người Tàu khác nhau nhiều lắm, từ kết cấu tạo quẻ đến lời Quẻ, lời hào đều đảo lộn, ý nghĩa tên Quẻ cũng hiểu khác nhau, như Lý thì Dịch học họ Hùng hiểu là sự thông hiểu, sáng suốt như ánh sáng phát ra từ ngọn lửa, tức Quẻ Ly-Lửa; còn Dịch học Tàu lại hiểu: Lý là dẵm lên… nên phát tán ý nghĩa Lý Hổ vĩ là Dẵm lên đuôi cọp…
c) Lời Hào
c.1) Hào Sơ: Tố Lý – vãng cát,
chân chất thật thà cứ thế mà sống, trời sẽ cho thằng dại ăn củ từ.
c.2) Hào Nhị: Lý đạo thản thản, u nhân trinh cát
Lẽ tự nhiên là con đường bằng phẳng, chân chất, giản dị, bình thản mà đi thì không lầm lỗi, đầu óc giản đơn chẳng cần suy nghĩ phức tạp, không mưu sâu kế hiểm, ngay thẳng mà đi mãi cũng chẳng sợ lầm lỗi gì. Thực là tốt.
c.3) Hào Tam: diếu năng thị, Bả năng lý, Lý Hổ vĩ diệt nhân, Hung, vũ nhân vi vu Đại Quân.
Đi sau con Hổ, cắn người ý nói dùng trí tuệ sự hiểu biết khoa học để hại người.
Chột mà đòi nhìn rõ, què mà đòi đi nhanh, kẻ võ biền mà đòi làm vua. Xấu lắm.
Hào từ hào này tương tự câu: sức yếu mà đòi gánh gánh nặng, đức mỏng mà ở ngôi cao. Tất cả đều mắc nạn… Quá cỡ hay vượt quá sức mình. Đòi hỏi quá cao so với khả năng chắc chắn sẽ thất bại.
c.4) Hào Tứ
Lý: Hổ Vỹ – Sách sách – chung cát.
Theo sự dẫn dắt của lý luận, khoa học, nhưng phải luôn cẩn trọng, cảnh giác coi chừng mắc bệnh “duy lý” được như thế tốt mãi về sau.
Khi lý luận xa rời thực tế nếu không biết kiểm chứng để chỉnh lý đích thực là đã rơi vào sự duy lý, một câu ngắn gọn không phải nói chơi đâu mà trả giá bằng hàng triệu sinh mạng đấy.
Cả tỉ con người đã bị cầm tù bởi chính mình, đang vùng vẫy thoát khỏi sự vong thân, đánh mất chính mình này .
c.5) Hào ngũ: Quyết lý – trinh lệ.
Quyết đoán, kiên định nhưng phải luôn cảnh giác với chính mình, coi chừng trở thành độc đoán, độc tài.
Hào ngũ là ngôi vị của thủ lãnh, của vua chúa không còn ai cao hơn mình để mình dè chừng…
Xe không thắng mà phóng hết tốc độ thì khó tránh khỏi tai nạn thảm thương.
Quyết đoán là phẩm chất người lãnh đạo, đã quyết rồi thì kiên định lập trường không nay ngả mai nghiêng. Nhưng chính mình phải luôn răn mình … biết lắng nghe, đi tìm sự phản biện để kịp thời chỉnh lý nếu không coi chừng trở thành tội nhân thiên cổ.
c.6) Hào Thượng
Thị lý khảo tường, kỳ toàn nguyên cát.
Tổng kết thực tiễn thành lý luận.Hoàn chỉnh từ gốc còn gì tốt bằng.
Thực tiễn giúp ta xác định các mối tương quan, tổng kết thành định luật, tổng các định luật tạo thành hệ thống lý luận, lý luận trở thành cơ sở giúp hoàn bị mọi việc từ lúc khởi đầu, như thế còn gì tốt hơn.
Cụ thể như tổng kết, thực tiễn cách mạng thành lý luận cách mạng, lý luận cách mạng lại chỉ đường cho hành động cách mạng tiếp theo, đó chính là kỹ toàn nguyên cát.
B – Quẻ: nhí (nhỏ) = Thiên/ Trạch
Có sự đảo lộn giữa Dịch học họ Hùng và Dịch học của người Tàu, nếu dùng Hán Văn thì Dịch học họ Hùng tạo quẻ trùng bằng 2 quẻ đơn như sau:
Thiên trạch = tiểu súc, phong thiên = lý,
Còn dịch Học của Tàu hiện nay là Thiên trạch = Lý, phong thiên =tiểu súc, hình tượng trên là trời nắng chang chang dưới là cái ao, hồ cạn nước: như thế sức chứa nhỏ lắm, Hoa ngữ gọi là Tiểu súc, ngôn ngữ bình dân Việt Nam là nhí, nhi, đồng nghĩa cũng là biến âm của từ nhỏ.
a) Lời Quẻ:
Tiểu Súc: Hanh, Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao.
Ở phía Tây Trung Nguyên mây đã dồn tụ nhưng chưa mưa xuống.
Tự ngã Tây giao là Việt ngữ, đây là một trong những đoạn cá biệt Tiếng Việt còn sót lại, không dịch sang Hoa ngữ;
Đất của Văn vương ở phía tây Trung Nguyên, mật vân bất vũ nghĩa là tình thế đã chính mùi rồi, thời cơ đã đến nhưng chưa phát động cách mạng để lật đổ bạo chúa là Trụ vương .
b) Lời tượng: tiểu súc, quân tử dĩ ý văn đức
Thời cơ chưa đến, trưởng nhân hãy lo làm cho đức độ rạng ngời thêm nữa bằng kinh văn, tức ý chỉ Văn vương soạn Kinh dịch.
Vua Trụ tàn bạo, lòng người hướng về ông Cơ Xương là Tây bá, nhưng Văn vương vẫn không tiến công lật đổ nhà Ân Thương vì ông cho là thời cơ chưa đủ chín, thánh đức của mình chưa đủ sáng để lên ngôi Thiên tử.. phải tiếp tục tài bồi thêm nữa bằng cách soạn thảo, xiển (thuyết) minh Dịch học.
c) Hào từ hay lời Hào
Trong 64 Quẻ dịch, đặc biệt dành quẻ tiểu sức để diễn tả nỗi lòng của ông Cơ Xương tức Văn Vương sau này, nó phản ảnh tư tưởng chính trị rất mới, đi trước thời đại quá xa.
Lòng vẫn mong mỏi sửa chữa một chế độ, cứu vớt một triều đại nhưng đến khi thấy đã quá mức khiếm khuyết thì mạnh dạn thay đổi hay cách mạng, không mãi trung thành một cách mù quáng với hôn quân bạo chúa.
Quẻ Tiểu súc diễn tả tâm tình, tư tưởng và cả chương trình cách mạng của Văn Vương, đánh đổ nhà Thương kiến tạo đế nghiệp cho nhà Chu.
c.1)
Hào
Sơ:
phục
Tự
đạo
Hà
kỳ
cữu
Trụ Vương đã sa vào sự đen tối, ăn chơi sxa đọa… nhưng mới ở bước đầu, nỗi lòng ông Cơ Xương là mong vua tỉnh ngộ trở lại chánh đạo làm một vị minh quân, được như thế thì không kể gì đến tội lỗi cũ nữa.
c.2) Hào nhị: khiên phục – cát.
Cả vua và lũ nịnh thần đã dấn sâu thêm vào tội lỗi, giết hại công thần đàn áp dân lành … nỗi lòng của Văn Vương là: Hãy dắt nhau trở lại với đạo công chính, còn kịp, chưa muộn đâu… tức ý Văn Vương sửa chữa, phục hồi một vương triều đỡ gian lao, không tốn máu xương hơn là lật đổ nó để xây dựng một vương triều mới…
Tới mức này ông Cơ Xương vẫn mong nhà Ân Thương phục Hưng.
c.3) Hào Tam
Dư thoát phúc, phu thê phản mục
Cái trục của bánh xe có nhiệm vụ nâng cái xe lên và giúp nó chuyển động.
Dư thoát phúc tức các công thần, danh tướng không còn ai nữa hoặc bị giết hại hoặc đã trốn lánh ý hào nói đến ông Vi Tử và ông Cơ Tử 2 đại công thần, là cái trục của cỗ xe “vương triều” Thương, một người đã bị Trụ Vương tống ngục, một người giả điên để thoát nạn, tới đây thì vua tôi tức Trụ Vương và ông Cơ Xương đã mỗi người một hướng, tức Văn Vương đã dứt khoát lập trường: đánh đổ chứ không cứu vãn nhà Thương.
c.4) Hào Tứ: Hữu phu, huyết khử dịch xuất – vô cữu
Lòng đã quyết dù cho máu đổ đầu rơi cũng không sợ hãi sờn lòng, như thế còn lỗi gì nữa.
Hào Từ diễn tả chí của ông Cơ Xương, dù hy sinh gian khổ tới đâu cũng quyết chí thành đạt, mục tiêu đánh đổ hôn quân, cứu giúp dân lành, ý hào nói lên một ý chí sắt đá, không gì thay đổi được.
c.5) Hào ngũ:
Hữu phu, loan như phú dĩ kỳ lân
Với lòng chí thành đứng ra tập hợp chư hầu, hình thành liên minh phạt Trụ, có phúc cùng hưởng có họa cùng chia .
Thiên hạ cả trăm nước lớn nhỏ tức những vùng tự trị hay lãnh thổ tự trị trong một liên bang gọi là thiên hạ, đất của ông Cơ Xương ở phía Tây Trung Nguyên, với chức Tây Bá, ông cai trị không những Tây quốc của mình mà còn nắm giữ cả mảng phía Tây của “thiên hạ”.
Theo sử thì khi ông mất, lãnh thổ dưới sự cai trị của ông đã là trọn châu thổ con sông “Châu”. Ngày nay vẫn là Châu Giang còn gọi là Tây Giang hay Sông Tứ, tức đã bao trùm cả miền Tây Nam Trung Hoa ngày nay[1].
c.6)
Hào
thượng:
Ký vũ, ký xử, thượng đức tải, phụ trinh lệ, nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung.
Đã mưa đã tạnh, ân trên đã đổ xuống, cứ khư khư kiên trinh như đàn bà mà trung với bạo chúa hôn quân thì mắc lỗi. Trăng đã tròn, trưởng nhân tiến thêm nữa sẽ nguy hiểm.
Hào
Từ
này
liên
thông
ý
nghĩa
với
lời
Quẻ
(Quái
từ),
lời
quẻ
nói
mật
vân
bất
vũ
ở
đất
của
Tây
bá,
giờ
đã
mưa
xuống
rồi,
mệnh
trời
đã
đến
với
Tây
Bá
Xương
–
nên
cứ
khư
khư
một
lòng
trung
với
Trụ
Vương
bạo
ngược
là
trái
mệnh
trời,
tức
có
tội
nhưng
tự
ông
Tây
Bá
thấy,
thánh
đức
nơi
mình
đã
đến
tột
đỉnh
như
trăng
đêm
rằm,
nếu
dấn
thêm
bước
nữa
tiến
đánh
tận
diệt
nhà
Ân
Thương
sẽ
mang
tiếng
để
đời,
mọi
điều
kiện
đã
được
ông
chuẩn
bị
để
sau
này
con
ông
là
Tây
Bá
Phát,
sử
Việt
gọi
là
Thục
Phán
làm
nốt
công
việc
của
ông,
thiên
hạ
vẫn
về
tay
nhà
Chu
mà
ông
tránh
được
tiếng
thí
chúa.
Mục lục[sửa]
Phần I[sửa]
- Lời dẫn nhập
- Trống đồng và quê hương dịch lý
- Dịch học hình tượng
- Thập nhị địa chi
- Dịch học tượng số
- Hà thư và Chục con
- ý nghĩa Hà thư
- Lạc đồ
- Dịch học tượng vạch
- Bát quái
- Tam tài-Ngũ hành
- Cửu trù
- vận dụng ngũ hành và Cửu trù
Phần II[sửa]
- 64 quẻ trùng
- quẻ Lớn mạnh
- quẻ Khôn ngoan
- cặp quẻ Mờ-mịt
- cặp quẻ Cầu cạnh
- cặp quẻ Kết-Đoàn
- cặp quẻ Li-Ti
- cặp quẻ Suôi-Ngược
- cặp quẻ Cùng-Chung
- cặp quẻ Khiêm-Dự
- cặp quẻ Tùy-Cải
- cặp quẻ Đôn-Đáo
- cặp quẻ Cưỡng-Bức
- cặp quẻ Bái-Phục
- cặp quẻ Tựu-Thành
- cặp quẻ Đủ-Đông
- cặp quẻ Khổng-Lồ
- cặp quẻ Hợp-Hành
- cặp quẻ Ranh-Mãnh
- cặp quẻ Mọc-Lặn
- cặp quẻ Chống-Đánh
- cặp quẻ Nan-Giải
- cặp quẻ Tổn-Ích
- cặp quẻ Cả-Quyết
- cặp quẻ Lỏng-Khỏng
- cặp quẻ Tu-Tỉnh
- cặp quẻ Thay-Đổi
- cặp quẻ Lôi-Cản
- cặp quẻ Tùng-Tiệm
- cặp quẻ Giam-Giữ
- cặp quẻ Chứa-Chan
- cặp quẻ Giao-Đổi
- cặp quẻ Trung phu-Tiểu qúa
- cặp quẻ Khép-Khởi
- lời Kết
Bản quyền[sửa]
- Nguyễn Quang Nhật
- http://nguyenquangnhat.page.TL
Bài liên quan
Liên kết đến đây
- Dịch học họ Hùng
- Dịch học họ Hùng/Bài 1
- Dịch học họ Hùng/Bài 2
- Dịch học họ Hùng/Bài 3
- Dịch học họ Hùng/Bài 4
- Dịch học họ Hùng/Bài 5
- Dịch học họ Hùng/Bài 6
- Dịch học họ Hùng/Bài 7
- Dịch học họ Hùng/Bài 8
- Dịch học họ Hùng/Bài 9
- Xem thêm liên kết đến trang này.